Thứ Hai, 29 tháng 11, 2010

Truyện ngắn KỶ NIỆM NGÀY XANH

Kỷ niệm ngày xanh
Truyện ngắn của Trọng Bảo
        Nhận được điện của Hằng báo tin thầy Lâm mệt nặng, tôi cố thu xếp rút ngắn chuyến công tác để có thế ra Bắc sớm hơn. Nhưng cũng phải đến gần một tuần sau tôi mới về đến Hà Nội. Ném vội hành lý vào nhà, tôi vớ xe máy phóng đến ngay nhà thầy.
          Hằng mở cửa đón tôi. Tôi hỏi ngay:
          - Thầy thế nào rồi?
Hằng vừa giúp tôi đưa xe vào khoảng sân hẹp vừa nói, mắt đỏ hoe:
          - Từ tối qua đến giờ thầy lúc tỉnh, lúc mê, chả còn nuốt nổi thìa sữa nữa.
          Tôi vội vã theo Hằng vào nhà. Thầy Lâm nằm thiêm thiếp trên chiếc giường cá nhân trong căn phòng nhỏ, giữa bốn bề là sách. Tôi quỳ xuống cạnh thầy. Hai bàn tay tôi nắm lấy tay thầy. Tay thầy hơi lạnh, không còn sự ấm áp như mọi khi. Tôi khẽ gọi:
          - Thầy ơi… con… An đây…
          Thầy Lâm vẫn nằm lặng yên. Nhưng tôi cảm thấy bàn tay thầy khẽ động đậy trong tay tôi. Tôi biết thầy đã nghe thấy tiếng tôi gọi. Hằng vẫn sụt sịt đứng bên cạnh. Tôi hỏi:
          - Sao không đưa thầy vào bệnh viện?
          Hằng lau mắt:
          - Chúng em đã đưa thầy vào viện. Nhưng sau một tuần thầy cứ dứt khoát đòi về. Mấy hôm nay bệnh tự dưng bệnh thầy nặng thêm.
          - Thế thuốc thang cho thầy bây giờ thế nào?
          - Các chú, các anh chị học trò của thầy là giáo sư bác sĩ ở các bệnh vẫn đến theo dõi, tiêm thuốc cho thầy. Các chú, các anh chị ấy cũng vừa mới về xong, lát nữa sẽ lại đến…
          Tôi lặng nhìn thầy. Thầy nằm yên trên giường. Đôi mắt của người nhắm nghiền như đang ngủ. Mái tóc của thầy bạc trắng như bông. Nét mặt thầy thanh thản như chẳng hề có những cơn đau đang âm ỉ trong cơ thể. Có lẽ thầy hiểu. Cả cuộc đời thầy gắn bó với bao lớp học trò như chúng tôi. Con đò của thầy chở bao nhiêu chuyến sang sông nay đã đến lúc phải cập bến nghỉ ngơi, giã từ sóng gió.
Nhìn vẻ mặt thanh thản của thầy, tôi nhớ lại lần đầu tiên gặp thầy, nhớ khi còn là học trò của thầy. Nhớ về kỷ niệm của những ngày xanh.
                                                                            *
          Đó là những năm chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc. Khi ấy tôi vừa lên lớp 8. Thời đó, lớp 8 là lớp đầu của cấp ba. Thầy Lâm vừa là chủ nhiệm vừa dạy lớp tôi môn toán. Thầy là người Hà Nội gốc. Hình như thầy có chuyện gì trục trặc về gia đình nên xin lên miền núi quê tôi dạy học. Thầy đem theo đứa con gái nhỏ. Hai bố con thầy ở một gian nhà nhỏ trong khu tập thể giáo viên. Bé Hằng khi ấy mới năm sáu tuổi đang chuẩn bị vào lớp 1. Tính thầy Lâm rất nghiêm khắc nên chúng tôi không thích thầy lắm. Nhất là tôi lại là một đứa lười học, hay trốn tiết đi bơi ngoài sông hay lang thang ra thị trấn. Giờ toán của thầy đúng là một cực hình. Văn thì tôi chả kém mấy ai nhưng lại rất rốt môn toán. Đã thế thầy Lâm lại hay kiểm tra, gọi tôi lên bảng. Bị nhiều điểm kém môn toán tôi rất lo, nhất là khi chi đoàn đang bồi dưỡng để kết nạp tôi vào đoàn. Học kém thì sẽ không đủ tiêu chuẩn để trở thành đoàn viên. Ngày ấy không là đoàn viên thì đi bộ đội cũng khó chứ đừng nói gì là vào đại học, cao đẳng. Tôi cũng đã cố tập trung học toán. Nhưng sự thông minh không phải cứ cố là có được ngay.
          Bài kiểm tra giữa học kỳ môn toán thường là hệ số hai. Được một điểm khá, hay điểm giỏi tức là có hai điểm khá, hai điểm giỏi, khi chia trung bình nó kéo các điểm kém khác lên. Ấy thế mà bài kiểm tra giữa học kỳ một tôi lại không làm được. Bài làm tẩy xoá, sửa chữa be bét. Nộp bài xong, tôi lo sốt vó. Lúc hết giờ so sánh với các bạn giỏi trong lớp thì tôi làm sai hết. Chợt nảy ra một sáng kiến. Tôi liền đem đề bài đi tìm anh Bái. Anh Bái là anh họ tôi học ở lớp trên. Anh rất giỏi môn toán. Kỳ thi học sinh giỏi toán toàn tỉnh anh đoạt giải nhì.
Tôi nhờ anh giải cho các bài toán trong đề kiểm tra giữa học kỳ. Anh làm một loáng là xong. Tôi ngồi chép lại thật sạch sẽ. Buổi chiều, tôi lân la gần nhà thầy Lâm. Nhìn thấy bé Hằng đang thập thò ở cửa, tôi vẫy vẫy tay khẽ gọi:
          - Hằng… Hằng… ra đây anh bảo!
          Vừa trông thấy tôi, bé Hằng đã lon ton chạy ra ngay. Con bé rất thích tôi vì tôi hay gấp cho nó khi thì cái chong chóng, con châu chấu bằng lá dừa hoặc con thuyền bằng giấy.
          Bé Hằng tíu tít:
          - Anh An ơi! Hôm nay anh gấp cho em con chim bồ câu nhé.
          Tôi bẹo má nó thì thào hỏi:
          - Bố có ở nhà không?
          - Bố em vừa đi “ọp an ám iệu ồi” (họp ban giám hiệu rồi).
          Bé Hằng nói líu cả lưỡi. Tôi bảo:
          - Thế thì tốt! Nhưng anh không có giấy để gấp…
          - Bố em có ối…
          Con bé khoe. Tôi bảo:
          - Để anh vào nhà xem có tờ giấy nào bỏ đi lấy gấp đồ chơi cho em nhé!
          Bé Hằng gật đầu. Tôi lẻn nhanh vào phòng thầy Lâm. Chả khó khăn gì, tôi tìm thấy tập bài kiểm tra toán của lớp thầy đang chấm dở để trong ngăn bàn. May quá, bài của tôi thầy chưa chấm đến. Tôi nhanh chóng đổi ngay bài làm vừa nhờ anh Bái giải giúp vào tập bài kiểm tra. Xong xuôi, tôi khép cửa và kéo bé Hằng ra mãi ngoài góc sân trường. Bé Hằng cứ luôn miệng giục đòi: “Anh gấp bồ câu cho em… anh gấp bồ câu cho em…”. Tôi lúng túng, kiếm đâu ra giấy để gấp đồ chơi cho nó bây giờ. Bé Hằng sốt ruột ngúng nguẩy trực khóc. À đây rồi, tờ giấy bài kiểm tra làm sai đánh tráo khi nãy còn gấp nhét trong túi quần. Tôi lấy tờ giấy ra vuốt phẳng, xé đôi rồi gấp cho bé Hằng một chiếc thuyền và một con chim bồ câu.
          Bài kiểm tra giữa học kỳ một ấy tôi được điểm chín. Bọn con trai lười học lớp tôi đều tròn mắt bái phục. Thầy Lâm sau khi biểu dương tôi trước lớp còn nói thêm: “Thầy mong rằng em sẽ tiếp tục cố gắng nhiều hơn để giữ vững kết quả học tập của mình”. Tôi thấy yên tâm vì thầy không phát hiện ra trò láu cá, gian lận của mình. Nhưng tôi cũng hơi hoảng vì nếu những bài kiểm tra tiếp theo lại bị điểm kém thì biết ăn nói thế nào với thầy và các bạn cùng lớp. Thế là tôi chú ý chăm chỉ học tập hơn. Tôi cũng thường xuyên đến nhờ anh Bái hướng dẫn thêm môn toán.
          Một hôm, thầy Lâm tìm tôi bảo:
          - Bé Hằng bị mệt, dỗ mãi không chịu ăn cơm, nó cứ đòi thầy đi tìm anh An đến gấp cho cái chong chóng mới chịu ăn.
          - Thưa thầy! Hết buổi học em sẽ đến ngay ạ!
          Tôi đáp. Hết giờ học tôi đến ngay phòng thầy Lâm. Bé Hằng đươc mấy thứ trò chơi thích quá, tay cầm cái chong chóng làm bằng lá dừa ăn liền hai lưng bát cơm.
          Từ đó tôi hay đến chơi với bé Hằng và cũng thấy bớt ngại thầy Lâm nghiêm khắc, khó tính. Thầy Lâm cũng tranh thủ kèm cặp hướng dẫn tôi thêm về môn toán.
          Đến cuối học kỳ một, lực học môn toán của tôi khá lên hẳn. Điểm kiểm tra đều từ bảy trở lên. Thỉnh thoảng, tôi còn được chín điểm môn toán.
          Chiến tranh phá hoại của Mỹ lan rộng khắp miền Bắc. Trường chúng tôi sơ tán vào trong rừng sâu. Bé Hằng vào học lớp 1. Nhiều hôm thầy Lâm bận lên lớp hoặc đi họp, tôi giúp thầy đưa đón bé Hằng đi học. Thầy coi tôi như con, tận tình chỉ bảo, nhắc nhở tôi học tập. Tôi cũng rất quý thầy và bé Hằng. Ngày ấy cuộc sống rất khó khăn. Quê tôi thường thiếu đói khi giáp hạt. Nhiều bữa thầy lấy cớ là bé Hằng không chịu ăn cơm nếu không có anh An đến chơi để giữ tôi ở lại ăn với hai bố con thầy. Sau này tôi mới hiểu thầy thương tôi nhà nghèo, ăn uống thiếu thốn, nhiều bữa chỉ có sắn thay cơm nên mỗi khi đem tem phiếu ra mậu dịch mua được chút thịt cá tươi là thầy đều tìm cách giữ tôi ở lại cùng ăn.
          Gần hết năm học lớp 8, tôi được kết nạp vào đoàn. Hôm làm lễ kết nạp cho tôi thầy Lâm vui lắm. Thầy đưa cả bé Hằng đến. Sau lễ kết nạp bé Hằng tặng tôi một bó hoa rừng.
          Giữa năm lớp 9, lúc này chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc đã tạm ngưng. Trường lại chuyển về thị trấn. Tôi còn nhớ hôm đó là ngày nghỉ, khu nhà tập thể giáo viên vắng vẻ. Tôi đến thăm thầy Lâm và bé Hằng. Vừa đến gần nơi thầy ở cuối dãy nhà tập thể thì tôi nghe tiếng kêu khóc của bé Hằng. Tôi vội chạy vào. Thầy Lâm đang nằm dưới sàn phòng khách. Bé Hằng đang cuống quýt lay gọi bố. Thầy bị một cơn đau đột ngột. Thầy có tiền sử bị bệnh tim. Thấy tôi, thầy cố thều thào bảo:
          - Đừng… sợ… thầy… kh…ông việc gì đâu. Cứ để thầy nằm yên một lúc. Thuốc thầy để ở ngăn tủ trên, An lấy cho thầy…
          Tôi chạy vào phía trong mở tủ tìm thuốc. Lúc kéo ngăn tủ ra tìm lọ thuốc tôi chợt thấy một cái thuyền và con chim bồ câu giấy cũ kỹ để ở trong hộc tủ. Tôi cầm lên xem và giật mình sửng sốt nhận ra chính là cái thuyền và con chim bồ câu tôi đã gấp cho bé Hằng bằng tờ giấy bài kiểm tra môn toán giữa học kỳ năm lớp 8 làm sai mà tôi đã đánh tráo. Thì ra ngay từ ngày ấy, thầy đã biết tôi đổi bài kiểm tra. Nhưng thầy đã không đưa tôi ra kiểm điểm trước lớp. Thầy có một cách khác để giúp tôi tiến bộ, học tập tốt hơn. Đó là cách của một người thầy luôn độ lượng, bao dung.
Tôi để chiếc thuyền và con chim giấy vào chỗ cũ và đem thuốc ra cho thầy.
                                                                            *
Năm tháng qua đi. Học hết cấp ba, tôi và nhiều bạn học lên đường nhập ngũ. Chúng tôi đã có mặt ở chiến trường miền Nam rồi lại lên biên giới phía Bắc. Trải qua bao thăng trầm của cuộc sống, nhưng tôi không bao giờ quên kỷ niệm của những ngày xanh, không bao giờ quên thời cắp sách đến trường, sống trong tình thương và tấm lòng bao dung, sự tận tâm của các thầy cô giáo, của thầy Lâm.
Khi đất nước hết chiến tranh, thầy Lâm chuyển về công tác tại thủ đô. Nghỉ hưu, thầy vẫn tham gia dạy tại lớp học tình thương cho trẻ em đường phố. Thầy vẫn dõi theo mỗi bước trưởng thành của lớp lớp học trò chúng tôi. Với tôi, thầy luôn có một sự quan tâm đặc biệt. Khi biết tôi trưởng thành thầy mừng lắm. Bé Hằng ngày ấy bây giờ cũng đã là một tiến sĩ, một nhà khoa học. Thầy đã một mình nuôi con khôn lớn, dạy dỗ bao lớp học trò nên người. Một mình thầy cô đơn với chiếc giường cá nhân. Nhưng bên thầy có bao lớp học trò vững bước, trưởng thành.
Bây giờ thì thầy nằm đó thanh thản trong tĩnh lặng. Là người chèo lái, thầy đã chở bao nhiêu chuyến đò sang sông cho chúng con nên người. Chúng con biết ơn thầy mãi mãi thầy ơi!
                                                       Hà Nội, ngày 20-11-2008

Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2010

Truyện ngắn ĐÊM SAO SA

Đêm sao sa
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Từ ngày mẹ mất, con bé Chuyên đâm ra ít nói hẳn. Vẻ mặt nó càng tỏ ra lì lợm hơn. Còn cu Cần em nó thì ngược lại. Ngày nào nó cũng khóc gọi mẹ. Cu Cần còn bé quá. Nó mới hơn hai tuổi. Nó vẫn cứ nghĩ mẹ đang đi chợ hay trốn núp ở sau cánh cửa để “ú oà” với nó. Nó chưa hiểu rằng sau tai nạn giao thông hôm ấy mẹ nó không bao giờ về nhà để còn chơi trốn tìm với nó được nữa.
          Hôm ấy, có tiền thưởng mẹ đèo cái Chuyên ra chợ. Mẹ định sẽ mua xong thức ăn và quà cho cả hai đứa sẽ vòng về lớp mẫu giáo đón cu Cần rồi đưa cả hai  đi ăn kem. Cái Chuyên còn nhớ giữa lúc hai mẹ con đang ríu rít trò chuyện, nó đang khoe với mẹ vừa được điểm 8 bài tập làm văn tả bầu trời đầy sao thì xảy ra tai nạn. Một chiếc xe máy của hai thanh niên từ phía sau phóng nhanh lạng lách bất ngờ tông mạnh vào đuôi xe của hai mẹ con. Mẹ nó mất tay lái. Chiếc xe của hai mẹ con văng mạnh ra bên lề đường. Phản xạ cuối cùng của mẹ là ôm choàng lấy con gái đang ngồi ở phía trước, rướn người lên cố che chở cho con. Hai mẹ con bắn văng ra lao đầu xuống mặt đường. Mẹ nó đã ra đi sau mấy ngày nằm im không nói được câu nào.
Cái Chuyên cũng bị thương ở đầu. Bác sĩ phải cạo cả một mảng tóc để khâu vết thương và bôi thuốc sát trùng cho nó. Cu Cần theo bố đến bệnh viện. Nó líu lo hỏi bố tại sao hai cô kia lại mặc quần áo trắng thế, không sợ bị mực giây vào bẩn à! Bố chưa kịp trả lời, nó lại hỏi tiếp: “Sao xe còi ủi của công an lại chạy vào bệnh viện, chắc có bác sĩ nào hư nên công an đến bắt bố nhỉ?”. Nó chưa phân biệt được xe cấp cứu với xe của công an. Khi thấy mẹ nằm im phăng phắc trên giường, nó cứ đòi lôi tay gọi mẹ dậy. Nó tỏ vẻ giận dỗi khi thấy mẹ không cười với nó, không bẹo vào đôi má phinh phính của nó. Nó còn định khóc thật to để bắt đền mẹ hôm qua không đến đón nó ở lớp mẫu giáo và đã nó đi ăn kem như đã hứa, phải để cô giáo đưa về tận nhà. Nhưng chưa kịp khóc thì nó nhìn thấy cô y tá lấy cái bơm tiêm ra. Nó vội im bặt và lùi lại núp vào phía sau lưng bố. Nhưng rồi nó lại bật cười khanh khách khi nhìn thấy chị Chuyên bị cạo trắng một mảng tóc trên đầu. Nó bảo: “Chị hư rồi nên bị ông ba bị liếm mất tóc trên đầu…”.
Nghe em nói, cái Chuyên cắn chặt môi. Nó cố nén để không khóc.
                     *
          Kể từ khi không còn mẹ, cái Chuyên trở thành một người khác hẳn. Mới mười một tuổi đầu nhưng nó đã ý thức được mọi chuyện. Nó trở thành người chăm lo cho cả gia đình. Nó biết đi chợ mua thức ăn, biết vo gạo nấu cơm và nấu vài món ăn đơn giản mà khi còn sống mẹ đã dạy. Buổi sáng khi còn mẹ, mẹ thường phải gọi mãi nó mới dậy để ăn sáng rồi đi học. Bây giờ thì nó biết tự dậy sớm, đun nước sôi pha mỳ tôm cho cả nhà. Những hôm bố bận nó đảm nhận luôn cả việc đưa đón cu Cần đi mẫu giáo. Rồi cả chuyện bố buồn uống rượu say nửa đêm mới về, nôn mửa cả ra sàn nhà, nó hì hụi lau chùi. Việc này khi trước là việc của mẹ nó. Nó lo cho bố và em ra dáng một người con gái đảm đang.
          Một hôm cái Chuyên vừa đón em từ lớp mẫu giáo về thì thấy trong nhà có một người phụ nữ lạ. Bố nó bảo: “Đây là cô Oanh! Các con chào cô đi!”. Nó chào lý nhí chả rõ tiếng gì. Cô Oanh chìa ra một gói bánh và cái ô tô nhựa. Cu Cần nhìn thấy định sà đến nhưng nó nắm chặt tay em giữ lại. Cô Oanh cụt hứng. Cái Chuyên kéo em vào trong bếp. Cu Cần ngoay ngoảy trực khóc đòi lấy quà. Cái Chuyên bảo: “Hôm nào chị sẽ mua cho cái ô tô đẹp hơn!”. Cu Cần không chịu, muốn có ngay cái ô tô. Cái Chuyên buột miệng dọa: “Tự ý nhận quà, chị sẽ mách với mẹ!”. Cu Cần nghe nhắc đến mẹ thì ngồi phệt xuống sàn bếp gào to: “Mẹ ơi… mẹ ơi…”. Cái Chuyên vừa khóc vừa dỗ dành em: “Cu Cần ngoan, hôm nào mẹ về sẽ mua cho nhiều quà…”. Cu Cần không chịu. Nó đòi gặp mẹ ngay. Cái Chuyên hứa: “Cu Cần ngoan chị sẽ đưa đi gặp mẹ nhé!”. Cu Cần nín khóc gật đầu.
          Bữa cơm hôm ấy cu Cần ăn nhiều hơn. Chiếc ô tô cô Oanh để lại trên nóc tủ lạnh nó chỉ lén nhìn trộm mấy lần nhưng không động đến.
Vừa ăn cơm tối xong cu Cần đã kéo chị ra sân. Từ ngày mẹ mất, tối nào trước khi đi ngủ, cu Cần nhớ gọi đòi mẹ cái Chuyên cũng đưa em ra sân. Nó chỉ lên bầu trời nói mẹ đang ở trên đó. Hai chị em cãi nhau một hồi. Cái Chuyên bảo mẹ là ngôi sao sáng màu xanh dịu. Cu Cần lại bảo mẹ là ngôi sao màu đỏ nhấp nháy liên tục kia kìa vì mẹ đang cười với nó. Ngển cổ nhìn sao một lúc mỏi mắt  cu Cần buồn ngủ. Cái Chuyên đưa cu Cần vào nhà xoa lưng cho em ngủ rồi ra đứng tựa cửa chờ bố. Có đêm bố nó cũng không về.
Mỗi lần cùng em nhìn lên bầu trời sao cái Chuyên vẫn tin rằng mẹ đang ở trên đó. Nó mong mẹ nó sẽ trở về. Nó nghe người ta kể chuyện khi có sao băng là người đã chết từ trên trời sẽ theo ánh sao về trái đất.
          Hôm sau trên đường từ lớp mẫu giáo về cu Cần chợt giật giật tay chị bảo:
          - Hôm nay chị phải đưa em đi gặp mẹ nhé!
          Cái Chuyên giật mình. Tưởng cu Cần đã quên chuyện hôm qua. Không ngờ nó vẫn nhớ. Cái Chuyên bảo:
          - Nhưng em hay buồn ngủ sớm làm thế nào mà gặp mẹ được!
          - Hôm nay em sẽ thức!
Nó nói vẻ quả quyết. Cái Chuyên cũng đã quyết tâm. Hai chị em về đến nhà, bố vẫn chưa về. Cái Chuyên nấu mỳ tôm làm bữa tối cho hai chị em. Ăn xong nó mở tủ tìm lọ chè của bố. Nó vẫn nghe người lớn thường nói với nhau uống chè đặc tỉnh ngủ. Nó bỏ chè vào ấm rồi rót nước sôi. Chờ một lát nó rót nước chè đặc sánh ra hai cái cốc. Khi nước đã nguội, nó nhắm mắt nhăn mũi uống một hơi hết một cốc nước. Nó bảo cu Cần uống cốc nước chè còn lại. Cu Cần vừa uống một ngụm nhỏ đã nhổ phụt ra nhăn mặt kêu:
          - Đắng lắm, em không uống đâu! Em uống sữa cơ…
          - Em không uống thì lại buồn ngủ không chờ mẹ được đâu.
          Cái Chuyên hết dỗ dành lại dọa, nhưng cu Cần cứ lắc đầu không chịu uống. “Thôi kệ em, cốt mình thức là được” - Cái Chuyên nghĩ.
          Hai chị em ra sân chờ. Khi trời đã tối hẳn vẫn không thấy các vì sao mọc lên. Hôm nay trời nhiều mây quá. Thấy cu Cần lại sắp khóc gọi mẹ, cái Chuyên đã đi đến một quyết định. Nó khoá cửa lại, giấu chìa khoá dưới chậu cây cảnh cho bố về lấy. Rồi nó dẫn em đi. Hai chị em leo lên ngọn đồi sau nhà. Trên đỉnh đồi cao nhất định chị em nó sẽ nhìn thấy nhiều ngôi sao hơn, sẽ được gần mẹ hơn. Cu Cần lon ton chạy theo chị. Nó có vẻ háo hức mong sẽ được gặp mẹ. Nhưng khi vừa leo lên dốc được vài bước nó đã kêu mỏi chân đòi chị cõng.
Cái Chuyên cõng em vất vả leo lên từng đoạn. Cứ được vài bước nó đặt em xuống ngồi nghỉ một lát rồi lại cõng em đi. Hai chị em cứ leo lên mãi, lên mãi.
Khi lên tới đỉnh đồi thì cu Cần đã buồn ngủ lắm rồi. Hai mắt nó ríu lại. Nó cố dặn: “Khi nào mẹ về chị gọi em nhé!”. Nói xong nó dựa đầu vào vai chị ngủ ngay. Cái Chuyên ôm chặt em. Lúc này nó mới thấy sợ. Đỉnh đồi tối mờ mờ. Ánh điện từ thị trấn hắt lên không đủ sáng nên bóng những lùm cây cứ dính liền với nhau như những bóng yêu quái đứng rập rờn xung quanh. Trời đột nhiên trở gió. Bầu trời đã quang quẻ hơn. Hàng trăm triệu ngôi sao lấp lánh như rất gần ngay trên đầu. Sương bắt đầu rơi. Trời lành lạnh. Cái Chuyên cởi áo đắp cho em trong khi mắt nó vẫn chong chong dõi trên bầu trời. Có những ngôi sao băng chạy chéo trên đầu kéo theo những vệt sáng. Nhưng cứ mỗi lần nó định lay gọi em thì ánh sao băng lại đã tắt mất.
          Chắc đã nửa đêm. Cái Chuyên quyết định gọi em dậy để về. Cu Cần cứ chằn ra không tỉnh. Cái Chuyên bực quá. Cu Cần mà không tỉnh ngủ thì không thể đưa em về được. Nó véo mạnh vào má cu Cần một cái. Không ngờ, cu Cần tỉnh ngay. Nó reo lên: “Mẹ…mẹ… ơi…”. Thì ra nó vẫn nhớ những lần mẹ véo má. Nhưng khi không thấy mẹ nó lại định khóc. Chợt cái Chuyên reo lên: “Kia kìa sao băng đấy, mẹ đấy…”. Cu Cần đứng bật dậy nhìn. Một chùm sao băng đang sa xuống. Ánh sao rơi kéo dài như sẻ đôi bầu trời.
Cu Cần nhìn ánh sao mong mẹ sẽ trở về.
Chùm sao đã tắt, cu Cần thất vọng vì không thấy mẹ. Đôi mắt nó mở to nhìn quanh về phía chân trời. Đột nhiên nó vỗ tay reo lên:
- Chị Chuyên ơi! Sao… sao… sa nhiều quá! Mẹ… mẹ… ơi…
Cái Chuyên nhìn theo tay cu Cần.
Phía chân đồi đèn đuốc đang cháy sáng rực. Có nhiều tiếng người lao xao gọi tên chị em nó. Đó là bố và bà con trong xóm đi tìm hai chị em nó. Cái Chuyên bật dậy gào to: “Bố… ơi… bố… ơi… chúng… con… ở… đây…”.      
                                                        Hà Nội, Trung thu 2008
                                                      

Truyện ngắn Cánh chim non

Cánh chim non
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Cứ nghĩ đến cảnh con bé mặt mũi tái mét, nước mắt, nước mũi giàn giụa đứng run rẩy giữa vòng vây của lũ trẻ chăn trâu luôn mồm gào thét: “Ê… ê… ê… con… ăn…. cắp… ăn… cắp…” là gã lại thấy bàng hoàng, thảng thốt. Gã giận mình thật hồ đồ. Gã thấy ân hận và xấu hổ vì là một người lớn hẳn hoi lại đi nghi ngờ, soát xét một đứa trẻ con, gán cho nó tội ăn cắp. Mà con bé ấy đâu phải là một người xa lạ. Nó là một người rất quý gã. Phải chăng chỉ vì số tiền quá lớn đã làm gã mất bình tĩnh. Cuộc đời gã trải qua bao nhiêu biến cố. Có nhiều lúc cái sống, cái chết cận kề mà gã vẫn bình tĩnh. Thế mà hôm nay, chỉ có mấy triệu bạc mà đã làm gã đánh mất bản lĩnh của mình, đánh mất sự bình tĩnh vốn có của thằng lính đặc công từng nằm ém suốt ngày giữa đồn địch chờ lệnh nổ súng. Gã chợt nhận ra mình. Thì ra sống ở đời cứ nghĩ là tinh anh vẫn có lúc lú lẫn, dại dột.

*
          Câu chuyện bắt đầu từ chiều hôm qua. Gã được ông cán bộ phụ trách thương binh xã hội gọi lên trụ sở uỷ ban nhân dân xã. Ông bảo gã ký vào một bản danh sách và mở tủ đếm trao cho gã mấy triệu đồng tiền hỗ trợ của một dự án gì đó vì người nghèo mà gã là đối tượng được hưởng. Cầm mười mấy tờ năm trăm nghìn đồng trên tay mà gã thấy nổi gai khắp cả người. Cả đời gã chưa bao giờ có được một số tiền lớn như thế. Gã trù tính với số tiền này sẽ mua thêm cá giống, thức ăn cho cá. Mua lấy một cái máy bơm Trung Quốc để khi tát ao và bơm nước thay đổi cho cá chóng lớn…
          Gói bảy triệu đồng vào mảnh giấy báo cũ, gã đút vào túi quần. Trên đường về lều cá, thỉnh thoảng gã lại thò tay vào túi nắn nắn như chưa tin hẳn là mình đang sở hữu một số tiền lớn như thế.
Buổi tối, gã để gói tiền dưới gối cho yên tâm. Gần như suốt đêm gã không ngủ được. Gã trằn trọc toan tính với số tiền. Gần sáng, gã vừa chợp mắt thì một cơn mưa rào ập xuống. Gã bật dậy vớ vội cái xẻng lao ra ao cá. Gã lo mưa to nước lũ từ trên đồi đổ xuống gây vỡ bờ ao, cá thoát ra sông hết. Chẳng quản mưa gió, gã hì hục đào đất be bờ. Những hạt mưa ném ràn rạt như ném sỏi vào mặt gã. Đàn cá dưới ao thấy mưa nhảy lên lao xao, chúng rất muốn thoát ra ngoài cánh đồng. Nhưng gã yên tâm bởi bờ ao của gã cao và vững chắc lắm.
          Trời sáng hẳn cơn mưa mới ngớt. Gã thấy chân tay boải hoải.
          Gã kéo lê chiếc xẻng về lều. Vừa kịp thay bộ quần áo ướt, gã đã lăn ra đống lưới ngoài cửa lều ngủ ngon lành. Nghe tiếng người đi chợ nói cười lao xao trên đường gã chợt tỉnh. Mặt trời đã lên hơn một con sào. Nhớ đến việc phải đi mua máy bơm và thức ăn cho cá, gã vội vàng vào trong lều tìm gói tiền. Gã thò tay xuống gối. Giật mình, tay gã chạm vào một củ khoai lang to còn nóng. Gã vội lật tung cái gối lên. Củ khoai lang lăn xuống đất. Không thấy gói tiền đâu. Gã hốt hoảng. Thôi chết! Mất tiền rồi. Gã nghĩ. Rũ tung hết cả giường chiếu vẫn không thấy gói tiền, gã bắt đầu mất bình tĩnh. Gã nghĩ ngay đến kẻ trộm. Ai có thể vào đây lấy trộm được nhỉ. Chỉ có thể là con bé Nhiên. Ngày nào nó cũng đi cắt cỏ và quanh quẩn ở lều cá của gã. Nó rất quý gã, hay giúp gã nhặt rau, thổi cơm có lẽ nào nó lại ăn trộm tiền của gã. Nhưng không nó thì ai vào đây. Từ hôm qua đến giờ đã có ai vào cái lều cá tàn tạ này đâu. Chỉ có con bé Nhiên. Củ khoai lang  dưới gối là của nó để phần cho gã. Có thể khi dúi củ khoai xuống dưới gối để ủ ấm nó đã thấy gói tiền của gã.
          Gã lao ra ngoài đồi. Bọn trẻ con chăn trâu đang chia nhau đánh trận giả. Một thằng vừa nhìn thấy gã đã reo lên:
- Chú Hưng ơi! Hôm nay chú lại dạy võ đặc công cho chúng cháu nhé!
- Võ với vẽ gì, chúng mày có thấy con Nhiên đâu không?
- Có… có… nó đang cắt cỏ phía kia kìa…
Rồi không đợi gã sai bảo bọn trẻ đã gào lên gọi tên con Nhiên. Nghe tiếng gọi, bé Nhiên hớt hải bê bao cỏ chạy lên. Vừa nhìn thấy gã con bé đã nhoẻn miệng cười. Nó nghĩ gã tìm nó nhờ việc gì đó, có thể là nấu cơm hoặc vá áo. Nó rất thích khi được giúp bác Hưng. Trong tâm trí nó, bác Hưng là người mà nó quý nhất.
Nhưng khi bé Nhiên chưa kịp nhận ra vẻ mặt hoảng hốt, giận dữ và ánh mắt nghi ngờ của gã thì đã bị gã giật phắt cái bao cỏ của nó dốc ngược. Bao cỏ đổ tung toé ra đất. Vừa bới tung nắm cỏ gã vừa quát mắng ầm ĩ. Bọn trẻ con ngạc nhiên xúm quanh. Rồi chúng cũng hiểu chuyện gã bị mất tiền. Mà kẻ trộm chỉ có thể là con Nhiên không thể là ai khác. Bọn trẻ chăn trâu giúp gã bới tìm. Chúng hất tung hết bao cỏ của con Nhiên và vạch tìm hết những chỗ con bé vừa ngồi cắt cỏ xem nó có giấu tiền ở đâu không. Con bé Nhiên trở thành tù binh của bọn trẻ chăn trâu. Nó đứng chết trân giữa vòng vây của bọn trẻ. Nó hoảng hốt, mặt mũi nó tái nhợt, nước mắt vòng quanh. Miệng nó lắp bắp van xin: “Cháu không… cháu không lấy tiền của bác đâu…”. Nhưng ai mà tin nó. Chỉ có nó là người duy nhất sáng nay đã vào lều cá. Không nó ăn cắp tiền thì ai!
Việc tìm kiếm không có kết quả. Gã quay về lều cá. Bọn trẻ chăn trâu vẫn chưa tha cho con Nhiên. “Ê… ê… ê… đồ ăn cắp tiền! Đồ ăn cắp tiền…” - Tiếng lũ trẻ chăn trâu gào vang cả một vùng đồi.
*
Gã chán nản chui vào lều. Gã nhặt cái gối rơi dưới đất ném lên giường. Củ khoai lang của bé Nhiên bị gã giẫm nát be bét. Gã thấy bức bối. Gã ngồi bệt xuống nền đất. Suốt đêm mất ngủ lại thêm chuyện mất tiền khiến gã thấy hai bên thái dương ong ong. Vết thương đầu gã bắt đầu đau.
Lúc trải lại cái chiếu, gã chợt giật mình nhìn qua những thanh gỗ làm giát giường bị gẫy. Hình như gã vừa chợt nhận ra một điều gì đó. Gã đẩy phăng cái giường ọp ẹp ra phía cửa và quỳ xuống tìm kiếm. Nền nhà dọc ngang những vết nứt nẻ như mạng nhện. Gã ghé sát mắt xuống nhìn. Trong một vết nứt sâu chỗ đầu giường gã đã nhìn thấy có mảnh giấy báo. Gã lùa hai ngón tay xuống cặp lấy mẩu giấy báo kéo lên. Đó đúng là gói tiền của gã. Thì ra khi giấu củ khoai vào dưới gối ủ nóng để phần cho gã, vô tình bé Nhiên đã đẩy gói tiền lọt qua khe giát giường rơi xuống trúng chỗ vết nứt trên nền nhà.
          Khi biết mình đã nhầm, gã ngồi thừ người ra thảng thốt. Gã dúi gói tiền xuống dưới gối rồi chui ra khỏi lều nhớn nhác ngó ra phía sau. Không nhìn thấy bóng bé Nhiên đâu, gã càng không yên tâm. Gã bồn chồn kiễng chân, nghển cổ trông về phía chân đồi bạch đàn. Bàn chân đất của gã dẫm vào một cành cây khô. Tiếng cành khô gẫy xào xạo làm một đám chim sẻ bay vù văng ra xa như những chiếc lá khô bị gió lốc cuốn thốc lên trời. Gã bước thấp bước cao ra phía đồi cây. Trời đã gần trưa, nắng nóng nên bọn trẻ đã lùa trâu về làng. Gã chợt nhận ra cái nón mê của bé Nhiên thấp thoáng sau mấy bụi cây lúp súp. Con bé đang ngồi cắt cỏ. Mặt nó cúi gằm xuống đất. Thân hình gầy gò của nó thu gọn trong chiếc nón. Gã ngập ngừng. Gã muốn chạy lại ngay chỗ bé Nhiên nói với nó một câu. Nhưng gã sợ.
Bé Nhiên đang căm cụi cắt cỏ. Nó đưa liềm miết sát xuống đất vì cỏ ở đây rất ngắn. Như mọi hôm thì giờ này nó đã về nhà. Nhưng hôm nay vì số cỏ đã bị lũ bạn chăn trâu lúc nãy vứt tung hết nên nó chưa về được. Nó phải cắt đầy bao cỏ cho con bò mẹ mới đẻ ăn có đủ sữa cho chú bê con. Con bò là do ông đội trưởng đội sản xuất thương mẹ nó ốm yếu, không có sức lao động dùng kinh phí hỗ trợ chăn nuôi mua và giao cho chăn dắt. Được hơn năm, con bò sinh con. Bé Nhiên thích con bê lắm. Nó chăm chỉ đi cắt cỏ cho bò mẹ ăn có nhiều sữa cho con bú, chóng lớn.
Thấy có bước chân người đi đến, bé Nhiên ngẩng đầu lên. Hai mắt nó con sưng đỏ vì khóc, vệt nước mắt còn hoen trên má. Trông thấy gã, con bé hốt hoảng đứng dậy lùi lại. Nó lắp bắp nói không thành tiếng:
- Cháu van bác! Cháu không… bác… bác tha cho cháu…
Nó vội lôi bao cỏ lệt sệt sợ hãi tránh ra xa gã. Gã ấp úng:
- Nhiên… Nhiên… đứng lại… đứng lại bác bảo…
Bé Nhiên không dám đứng lại. Nó ôm bao cỏ lật đật chạy về nhà. Miệng bao chưa kịp buộc túm, những cọng cỏ non rơi lả tả xuống lối mòn. Gã không dám đuổi theo con bé sợ nó thêm hoảng mà vấp ngã. Gã quay lại túp lều coi cá. Trong đầu gã trống rỗng. Mọi ý định sử dụng số tiền tài trợ để kinh doanh phát triển sản xuất đều biến mất. Trong đầu gã lúc này chỉ suy nghĩ làm sao gặp được bé Nhiên để xin lỗi nó. Gã ân hận và cứ tự trách mình mãi về sự hấp tấp đã làm tổn thương đến một đứa bé mà gã từng coi nó như con đẻ của mình. Gã không có con. Vợ gã đã bỏ đi sau khi sinh ra một cục thịt. Gã bị nhiễm chất độc da cam. Cuộc đời gã thế là hết.
Mẹ con bé Nhiên không biết từ đâu phiêu dạt về sinh sống ở khu xóm núi này. Con bé hay ra lều cá của gã chơi. Có tiếng trẻ con tự dưng căn nhà lều của gã ấm áp hẳn lên. Hôm nào con bé không đến là gã thấy nhơ nhớ, làm việc gì cũng thấp thỏm. Thế mà hôm nay, chỉ vì tiền mà gã đã đánh mất tất cả. Nhất định gã phải vào xóm tìm mẹ con bé Nhiên. Bây giờ gã mới lại nghĩ đến số tiền. Gã ngạc nhiên là kể từ khi cầm số tiền lớn trong tay, tính toan chi tiêu đủ thứ mà chưa lần nào gã nghĩ đến cho bé Nhiên vài nghìn để nó mua lấy quyển vở, cây bút đi học.
Bữa trưa hôm ấy gã bỏ ăn. Một cơn sốt đã quật ngã gã. Gã sốt li bì mấy hôm. May có bọn trẻ chăn trâu báo cho ông trưởng thôn biết. Ông gọi cô y tá ở trạm xá xã ra tiêm cho mấy mũi giảm sốt. Cất cơn sốt gã vội vã vào xóm. Đến ngôi nhà nhỏ cuối thôn, gã gọi một lúc mới thấy một người phụ nữ ra mở cổng. Chị có vẻ ốm yếu vừa ôm ngực ho vừa đẩy cánh cổng. Đó là mẹ bé Nhiên. Vừa nhìn thấy gã, người đàn bà chắp tay:
- Em cắn rơm, cắn cỏ lạy bác! Con bé nhà em nếu có lỡ lấy tiền của bác… cũng xin bác…
- Không không phải thế đâu… - Gã vội xua xua tay: - Tôi… tôi…
Gã kể lại câu chuyện bữa trước, vẻ rất ân hận. Nghe thấu chuyện, người đàn bà giờ mới hoàn hồn. Chị cứ nghĩ là gã vào nhà mình để tìm số tiền bị mất. Chị mời gã vào nhà. Khi gã hỏi về bé Nhiên, chị rơm rơm nước mắt:
- Nó đi rồi anh ạ!
- Đi đâu? - Giọng gã thảng thốt. Chị sụt sịt kể:
- Mấy hôm trước con bê mới đẻ của nhà em tự dưng lăn ra chết. Con bé khóc mãi. Em cũng trả lại con bò cho đội sản xuất rồi. Con bé ở nhà không đi cắt cỏ nữa. Có người trên thành phố về nói có nhà hàng cần phụ giúp bán phở nên nó muốn đi kiếm tiền giúp mẹ. Em khuyên ngăn mãi nhưng nó không nghe, với lại em ốm yếu thế này…
- Nó còn bé thế… nó không đi học nữa à?
- Nó nói nó sẽ tự học… - Người đàn bà ôm ngực ho một lúc rồi nói tiếp: - Nó đem theo cả mấy cuốn sách giáo khoa lớp bốn đấy.
Gã thấy hụt hẫng. Gã ngồi thừ người ra một lúc rồi hỏi:
- Thế có biết nó làm thuê ở đâu không?
- Em cũng không biết! Hôm trước chỉ thấy nó nhắn về là được ứng trước tiền công tháng đầu tiên nên gửi cho mẹ hai trăm nghìn…
Tự dưng gã quyết định:
- Tôi sẽ đi tìm bé Nhiên! Nhất định tôi sẽ đưa nó về cho nó tiếp tục đi học.
Người đàn bà ngạc nhiên nhìn gã. Gã nói tiếp:
- Nếu không đưa được nó về tôi cũng phải xin lỗi nó một câu… để nó tha thứ cho tôi…
Mặc cho người đàn từ chối, gã dứt khoát để lại cho chị một triệu đồng rồi ra về. Gã vào xóm tìm người để chuyển nhượng lại cái ao cá sắp thu hoạch.
*
Cả tháng trời gã lang thang khắp phố phường Hà Nội. Ban ngày gã vừa đi dò tìm tung tích bé Nhiên vừa tranh thủ làm thuê. Thôi thì đủ các thứ việc giống như đám cửu vạn từ nông thôn ra thành phố kiếm tiền. Ai thuê việc gì, gã làm việc nấy. Đêm đến gã ngả lưng khi thì nhà ga, lúc vỉa hè, có tối thì trong căn nhà trọ tồi tàn giá mấy nghìn ngoài bãi sông. Gã lần tìm đến các tiệm phở. Hà Nội thật nhiều tiệm phở. Phở là món ăn đặc sản nhưng trở thành thường nhật, đại chúng của người Hà Nội. Chỗ nào cũng thấy tiệm, quán bán phở. Có những nơi chẳng cần quán xá, chỉ một nồi nước dùng kê ở vỉa hè người ta cũng bán phở. Chính vì sự phổ biến và đại chúng như vậy nên phở Hà Nội dần dần mất hết vị đặc trưng riêng biệt của nó. Gã đã ăn ở nhiều quán phở, ngon có, dở có. Vừa ăn gã vừa dò hỏi về bé Nhiên. Quán nào thấy có trẻ con giúp việc là gã lập tức vào hỏi thăm.
Lần mò mãi, gã cũng tìm được quán phở bé Nhiên làm thuê. Bất ngờ gặp gã, con bé tròn mắt ngạc nhiên. Ánh mắt nó lộ vẻ hoảng sợ. Nó suýt đánh rơi chồng bát đũa đang bê trên tay. Nó tuy có trắng trẻo hơn nhưng vẫn gầy gùa, mảnh khảnh như khi còn ở nhà. Gã ấp úng bảo: “Bác… bác muốn nói chuyện với cháu!”. Bé Nhiên lý nhí nói “Vâng… vâng… bác chờ cháu một tý…”. Nói xong nó bê chồng bát đũa đi nhanh vào phía sau cửa hàng.
Gã ngồi chờ. Hồi lâu không thấy bé Nhiên ra, gã đứng dậy nhớn nhác vào chỗ quầy hàng hỏi. Bà chủ quán dừng tay thái thịt hỏi lại:
- Thế chú là bố con bé hả?
- Vâng… vâng… - Gã buột miệng đáp. Bà chủ quán thong thả:
- Chắc là nó bỏ nhà trốn lên thành phố chứ gì?
Gã chưa kịp trả lời thì một ông đang ngồi ăn ở bàn gần đấy tặc lưỡi nói:
- Trẻ con bây giờ là hư lắm! Bố mẹ không đồng ý cũng bỏ nhà đi. Lên thành phố đứa nào cũng hư hỏng, ăn cắp như ranh…
Thấy mọi người có vẻ hưởng ứng, ông ta nói tiếp:
- Cạnh nhà tôi có con bé là “ô-sin” được chủ nhà tin cậy thế mà nó đang tâm xiết cổ bà chủ rồi cạy tủ lấy trộm mấy chục cây vàng đấy.
- Con bé này không thế đâu! - Bà chủ quán cắt lời ông ta: - Hôm trước có bà khách nước ngoài vào ăn phở bở quên cái ví có hơn nghìn đô, chục triệu tiền Việt, nó nhặt được đưa tôi trả lại. Bà khách nhận lại cái ví đã thưởng cho nó một triệu đồng nhưng nó dứt khoát không nhận…
Vừa nói, bà chủ quán vừa mở túi đưa cho gã bốn trăm nghìn đồng. Gã ngạc nhiên:
- Tiền gì đây ạ?
- Đây là tiền công tháng này của con bé! Anh cầm luôn cho nó nhé.
- Thế nó đâu rồi ạ?
- Nó đi rồi!
- Nó đi đâu rồi ạ? - Gã nhỏm dậy, giọng hốt hoảng.
- Không rõ! Chắc nó sợ anh bắt về nên đã bỏ đi mất rồi. Mấy đứa cùng làm vừa nói lại với tôi như thế.
Gã dáo dác ngó quanh. Rồi gã lại ngồi phịch xuống ghế. Bà chủ quán phở đưa thêm cho gã một trăm nghìn đồng nữa bảo là tiền thưởng cho con bé ngoan ngoãn, chịu khó.
Gã buồn bã bước ra ngoài đường phố.
Đã cuối buổi chiều. Mây mù xám xịt ùn ùn kéo đến. Sắp có một cơn giông. Trời lành lạnh. Gió xoáy thốc xuống mặt đường cuốn bụi lên mù mịt. Những cánh chim non chấp chới bay giữa phố phường san sát những nhà cao tầng tìm một cành cây tránh gió.
                                                                Hà Nội, tháng 7-2008

Truyện ngắn Tiếng sáo diều

       
Tiếng sáo diều
Truyện ngắn của Trọng Bảo
     Thằng Hạng mặt mũi đỏ căng, mồ hôi, mồ kê nhễ nhại chạy đến gọi tôi:
- Lão Câm đã vác diều ra đồng rồi! Đi thôi mày!
           Tôi buông con dao đang thái bèo nhớn nhác ngó vào bếp. Mẹ tôi đang lúi húi nấu cơm chiều. Tôi xua xua tay ra hiệu cho thằng Hạng nói nho nhỏ thôi kẻo mẹ tôi nghe thấy. Đoạn, tôi túm tay thằng Hạng, hai đứa chạy tuông ra đầu ngõ.
          Một đám trẻ con, người lớn đang rồng rắn đi theo sau lão Câm. Lão mặc độc một cái quần đùi nâu. Chiếc diều sáo kềnh càng lão vác trên vai. Đi sau lão là anh Cu Bân vai khoác một cuộn dây diều được vót bằng tre dẻo và dai. Tôi và Hạng nhanh chóng nhập vào đoàn người đi thả diều. Đoàn người đi về phía Nam của cánh đồng vừa gặt. Những gốc rạ đâm vào bàn chân trần đau đau, nhột nhột. Gió nồm nam lồng lộng thổi từ ngoài sông Đáy thổi vào, qua cánh đồng làng còn đẫm mùi lúa chín.
          Đến gần cuối cánh đồng, lão Câm giơ bàn tay lên trời như định hướng và kiểm tra độ mạnh của gió. Đoạn lão ra hiệu cho anh Cu Bân chuẩn bị "đâm" diều, tức là phóng con diều lên trời. Muốn "đâm" được con diều sáo nặng lên bầu trời phải là một người khoẻ mạnh. Đồng thời, người giữ dây diều cũng phải khéo léo, điều chỉnh dây lèo luôn căng và phải biết kéo "nhử" cho cánh diều đón được đủ gió bay lên bầu trời.
          Anh Cu Bân là người khoẻ mạnh, hiền lành thường được lão Câm giao cho nhiệm vụ "đâm" diều. Dây diều được buộc chặt vào một gốc duối già mọc trên bờ ruộng hay ven làng. Khi chiếc diều sáo đã "ăn" hết cuộn dây dài, bay lên đủ độ cao, định vị trên bầu trời thì tiếng sáo cũng ổn định.
          Tiếng sáo diều vi vu trên cao vang xa khắp làng quê. Những đêm trăng sáng ngồi ở sân nhà mình thấy chiếc diều bay ngang trên đầu và tiếng sáo âm vang vào tận trong nhà khiến lòng người luôn thư thái, bình yên.
*
          Lão Câm là người rất quý trẻ con. Tên thật của lão là gì đám trẻ con chúng tôi không biết. Lão sống một mình trong căn nhà tre nhỏ ở tít phía sau làng. Vì lão không nói được nên cả làng gọi lão là lão Câm. Tuy lão bị câm nhưng đôi tai của lão lại rất thính. Khi làm sáo diều chỉ thổi thử vào lỗ sáo là lão biết tiếng của nó sẽ hay, hay dở. Khi diều đã lên cao, nghe tiếng sáo hình như lão biết là độ ẩm không khí cao hay thấp, biết gió đang đổi chiều, ngày mai trời sẽ mưa, hay nắng. Lão thường ú ớ khua tay ra hiệu nhưng người làng ai cũng hiểu.
          Lão Câm hay giúp bọn trẻ con chúng tôi làm những chiếc diều nhỏ. Lão lựa thanh tre, vót, uốn làm khung và phết giấy dán cẩn thận như khi làm con diều sáo lớn. Những chiếc diều lão làm giúp chúng tôi bao giờ cũng bay cao nhất. Chúng tôi cũng hay giúp lão đi tìm tre để vót dây diều, làm ống sáo. Tre dùng để vót dây diều không được già quá dễ gãy, non quá lại yếu, hay đứt. Tuỳ theo kích cỡ của diều mà vót sợi dây tre to, nhỏ. Những sợi dây diều vót bằng tre được lão Câm cuộn thành vòng cho vào nồi đồng lớn luộc từ sáu đến bảy tiếng trở nên mềm dẻo và rất bền.
          Làng tôi xung quanh bao bọc bởi những bụi tre. Tre quây quanh bờ ao, bờ ruộng. Những cây tre dùng làm dây diều phải thật thẳng, thưa mắt, vỏ vây xanh đều, không sâu, kiến, không cụt ngọn. Nhà nào có cây tre được lão Câm xin làm dây diều cũng lấy làm vinh hạnh. Họ giúp lão chặt tre rồi vác về tận nhà cho lão. Sáo diều cũng được làm bằng tre. Đó là ống của những cây tre già, loại tre đanh, chắc, thịt màu đỏ nâu, khi gặp mưa gió không bị nứt nẻ, khoét làm sáo diều tiếng ấm, vang, ngân nga tha thiết như ai đang thổi giữa trời.
          Tiếng sáo diều của lão Câm là ấn tượng êm ái suốt thời thơ ấu của tôi. Nó như tiếng hát thanh bình của quê hương tôi ngày ấy. Lần cuối cùng tôi được nghe tiếng sáo diều của lão Câm là một buổi chiều đầu thu. Tôi đang chuẩn bị nhập ngũ. Hôm đó tôi đang giúp mẹ dọi lại mái nhà bếp thì nghe tiếng sáo diều đột nhiên lạc tiếng. "Diều bị đứt dây rồi" - Tôi thảng thốt nghĩ. Các cụ thường nói "Diều lên mỏi cổ, diều đổ mỏi chân". Diều bị đứt dây có khi phải đuổi theo qua mấy cánh đồng mới tìm được chỗ nó bị rơi. Theo hướng cánh diều bay và tiếng sáo kêu lạc điệu, trẻ con, người lớn làng tôi ý ới gọi nhau đi "đuổi diều" (tức là đi tìm cái diều bị rơi). Tôi buộc vội mối lạt cuối cùng rồi lao ra cánh đồng.
          Tôi cùng mấy người lớn và đám trẻ con đạp trên những gốc rạ, đuổi theo hướng chiếc diều đang cuốn theo đoạn dây đứt bay sang làng bên cạnh. Khi chúng tôi tìm được và hí hửng vác chiếc diều quay về thì ai đó chợt hỏi:
- Ơ! Lão Câm đâu rồi nhỉ?
- Lão ấy vẫn chạy phía sau cơ mà?
          Chúng tôi ngơ ngác nhìn quanh. Lúc nãy thấy lão lật đật chạy theo, tôi còn bảo: "Lão già yếu rồi chạy theo làm gì, chúng cháu sẽ đưa chiếc diều về cho lão!".
          Chúng tôi quay về làng. Chợt lại nghe tiếng người kêu cứu ồn ào ở phía bờ ngòi, nơi có những lò gạch của hợp tác xã. Tôi vội chạy ra. Tôi rẽ đám người đang xúm xít ven bờ ngòi len vào. Tôi giật mình khi nhìn thấy lão Câm tóc tai rũ rượi nằm sõng sượt im phăng phắc. Thì ra mải đuổi theo cánh diều rơi lão đã sa chân ngã xuống một cái hố sâu hoắm ngập nước người ta đào lấy đất làm gạch. Lão Câm ú ớ kêu cứu. Nhưng tiếng lão không phải là tiếng người nên đám thợ đang đóng gạch ở gần đấy không chú ý. Khi người ta phát hiện ra thì đã quá muộn mất rồi.
          Ba mươi năm đã qua, ngồi viết lại truyện này, tôi vẫn thấy văng vẳng bên tai tiếng sáo diều của lão Câm dìu dặt trên bầu trời quê hương ngày nào.
                                                              Hà Nội, ngày 17-8-2009                       

Thứ Sáu, 26 tháng 11, 2010

Truyện ngắn Bến sông xưa

Bến sông xưa
Truyện ngắn của Trọng Bảo
       Buổi sáng mùa đông ảm đạm. Kinh thành còn chìm lẫn trong sương sớm. Sau biến cố thất triều, phố phường chưa trở lại được cái nếp sinh hoạt cũ. Hàng quán khai môn muộn hơn. Thi thoảng có một tiếng hú và tiếng vó ngựa rần rật vút qua. Đó là đám lính chạy chiếu thư của tân triều truyền lệnh cho các bộ. Đã bao đời nay việc thay ngôi, đổi chủ thường diễn ra trong loạn ly, máu chảy. Cũng có lúc là sự chuyển giao ôn hoà. Nhưng dù là hình thức chuyển giao chế độ như thế nào thì đám vương gia cựu triều cũng lâm vào thế thất sủng, hoảng loạn, ly tán. Thiếu gì chuyện kẻ mới lên ngôi lo việc diệt trừ tận gốc rễ để phòng hậu họa. Vậy nên việc họ Hồ tiếm ngôi nhà Trần khiến đám quan lại, họ hàng thân, sơ triều cũ bàng hoàng, kinh hãi. Nhiều người phải bỏ kinh trôi dạt tứ phương.
          Lại nói về một buổi sáng mùa đông ảm đạm. Dòng Nhị Hà sóng lặng. Thuyền bè hai bờ tả hữu còn gác mái chờ sáng. Trong cái khoảng tĩnh không ấy có một con thuyền nhỏ lặng lẽ rời bến Chương Dương. Con thuyền cố tránh va chạm với những thuyền bè khác gây nên tiếng động lớn.
          Chiếc thuyền nhỏ ra đến giữa sông thì quay mũi ngược phía thượng nguồn. Nước sông chảy xuôi miết vào mũi thuyền tạo nên tiếng rào rào như xé. Chủ nhân con thuyền ấy là đôi vợ chồng trẻ. Họ rời kinh thành không hẳn vì sợ loạn ly, có lẽ là cám cảnh suy tàn của một vương triều đem lại bao nhiêu đau thương cho lương dân. Hoặc là họ chưa thích ứng được với tân triều. Có nghe chuyện Hồ Quý Ly tuy là một võ tướng nhưng có tư tưởng canh tân, mưu vãn hồi tình cảnh đất nước, song vốn dĩ là người cầu an nên Trần(1) vẫn quyết định cùng vợ rời bỏ kinh đô lên miền sơn cước tá túc. Họ đem theo một vài gia nhân, những tay chèo khoẻ mạnh. Mái chèo chém vào sóng nước tạo nên những âm thanh gọn gàng, chắc khoẻ. Con thuyền lướt đi trong màn sương sớm lạnh lẽo và ẩm ướt. Trần ngồi ở mũi thuyền, mắt đăm đăm nhìn về phía trước ước lượng từng đoạn đường sông. Chàng có vẻ suy tư, lo cho những điều bất định của ngày sau, không biết đoạn trường phía trước rồi sẽ ra sao. Nhưng rồi Trần lấy lại sự bình tâm, tin ở tuổi trẻ và lời dặn của cố nhân “hữu siêng, tất phú”.
          Chợt có hơi ấm toả ra ở phía sau lưng, Trần quay lại. Đặng Thị(2) - vợ Trần nhẹ nhàng khoác cho chồng tấm áo choàng. Nàng hỏi chồng:
          - Chàng có điều gì phải lo nghĩ? Có phải chàng ngại nơi thâm sơn, tùng cốc khó bề kiếm kế sinh nhai?
          - Ta không lo sự tồn tại bởi siêng năng thì chẳng sợ gì khó nghèo!
          - Thế chàng còn lo nỗi gì nữa?
          - Ta lo tại sự tồn sinh!... - Trần nói giọng buồn buồn, ánh mắt nhìn vô định. Đặng Thị hiểu chồng. Hai người lấy nhau đã lâu, đều trẻ trung mà mãi chưa sinh được mụn con nào. Chồng nàng lo lên vùng rừng sâu, nước độc, lao động vất vả, thiếu người nối dõi tông đường, ít nhân lực để khai sơn, phá thạch. Đặng Thị lây nỗi buồn của chồng. Nàng lặng lẽ ngồi xuống bên Trần. Một cơn gió lạnh lùa sương sớm tạt lên mặt người khiến đôi vợ chồng trẻ rùng mình. Họ càng hiểu sự tha hương và những nỗi chuân chuyên đang chờ ở phía trước.
          Con thuyền đến ngã ba Hạc Trì thì mặt trời đã lên độ một con sào. Mặt nước quang quẻ. Sóng dồi lớp lớp từ nguồn Lô, nguồn Thao tạo nên sự mênh mông của dòng sông đổ về phía hạ lưu. Một đàn hạc trắng chợt bay ngang sông, tiếng kêu thảng thốt vọng lan mặt nước. Hai vợ chồng Trần Đặng Thị sững sờ trước cảnh non nước thần tiên. Ngước lên phía thượng nguồn là núi Nghĩa Lĩnh thờ Tổ uy phong, bên tả, bên hữu là hai dãy Ba Vì và Tam Đảo trấn vững. Trần thốt lên: “Quả là một nơi ẩn cư, dụng chí”.
          Trần bảo đám gia nhân tìm bến neo thuyền, dò phong thuỷ định nơi dựng trại. Thấy địa trang Sơn Đông vốn là miền gò đồi rừng rậm bao phủ, sinh cảnh nghèo nàn chưa ai khai phá lại có vượng khí lan toả nên Trần bàn với vợ dừng chân định cư. Họ chặt cây rừng dựng buộc thành kèo cột, đắp tranh cỏ làm mái toan tính việc khai hoang, lập ấp. Nhưng buổi đầu ở chốn thâm sơn việc cấy lúa, trồng ngô khoai đâu dễ. Lúa cấy không quen thuỷ thổ nên lay lắt chẳng chịu làm đòng, hạt ngô vùi xuống đất chim chuột moi lên ăn hết. Cái đói, cái lạnh rập rình vây bủa. Nhưng bao giờ cũng vậy, bức bí cùng đường tất sinh sáng kiến. Một bữa vào rừng bẫy thú, lúc ngồi nướng thịt dưới gốc cây dọc, vun lá khô nuôi mồi lửa Trần chợt thấy những cái hạt cây bằng ngón tay khô đen cháy rần rật như nến. Đó là hạt quả dọc. Trần nảy ra ý nghĩ ép hạt dọc lấy dầu đốt thay cho mỡ lợn vốn là loại thực phẩm rất quý.
          Ép dầu dọc là một việc công phu. Hạt quả dọc được nhặt về đạp trầy vỏ, phơi ưởi cho ngót bớt nước, giã dập vỡ, đem đồ lên như đồ xôi. Khi mùi thơm nồng ngậy bốc lên là hạt dọc đã chín có thể đem ép lấy dầu. Dụng cụ để ép dầu dọc là một khung gỗ lim. Một đầu khung gỗ được chôn xuống đất thật chắc. Phía thanh xà sát đất đục một lỗ nhỏ để khóa đầu hai tấm ván ép. Thanh xà phía trên đục một rãnh dài để lắp phần trên của hai tấm ván. Hai tấm ván ép dầu dọc như một cái kẹp lớn. Hạt quả dọc đồ chín còn nóng bỏng được đổ vào bao gai gói lại gài vào giữa hai tấm ván ép. Đoạn dùng nêm chêm vào hai đầu rãnh làm hai tấm ván ép chặt vào nhau. Hạt quả dọc nóng bị ép chặt, tinh dầu thoát ra chảy xuống chậu sành. Dầu dọc sánh như mật ong nhưng sẫm hơn, toả ra mùi thơm dìu dịu. Dầu dọc cháy sáng hơn, không khét, nổ lép bép như mỡ lợn lại rất thơm, xua được âm khí.  
           Nhờ học được nghề ép dầu dọc mà cuộc sống của gia đình họ Trần ở Sơn Đông đỡ vất vả hơn. Việc ép dầu dọc thường làm vào buổi đêm để tránh nắng làm dầu hao. Ban ngày Trần gánh dầu đi bán rong khắp chốn. Một bữa, đi qua đền thờ Tây Thiên quốc mẫu(3) nổi tiếng linh thiêng Trần bèn đem dầu dọc vào cung tiến cho đền chùa. Sư cụ trụ trì bảo chàng thắp một nén nhang và lạy tạ Quốc mẫu cầu đảo. Lúc ra đến cửa thì trời đất mù mịt mưa gió, Trần xin nghỉ lại tại chùa. Đêm ấy, Trần ngủ mơ thấy có người đến bên giường bảo: “Tiên đồng giáng thế ắt sinh anh kiệt”. Trần bừng tỉnh nghĩ mãi mà vẫn chưa hiểu sự thể thế nào.    
*
          Khi chồng đi bán dầu Đặng Thị ở nhà quản bọn gia nhân ép dầu, làm ruộng. Nàng còn son rỗi nên phóng túng. Một hôm trời nắng, đi cấy ở ruộng về, nàng ra sông Lô tắm. Nước sông trong xanh, nhìn như thấu đáy. Cá tôm lao xao, có con nhảy vút lên khỏi mặt nước khi nàng dìm mình xuống nước. Một toà bảo tháp thiên nhiên ẩn hiện. Dòng nước mát tràn ứ dập dềnh. Thít chặt dải yếm, nàng thoả sức vẫy vùng. Sau khi lặn ngụp đã thích, Đặng Thị bơi về phía bờ. Chợt nàng thấy dòng sông như nghiêng đi. Những cuộn sóng cuộn tròn từ phía giữa sông lăn về phía bến. Đặng Thị ngỡ ngàng nhìn ra. Một con giao long trồi hẳn lên mặt nước quẫy đảo, vảy rồng lấp lánh, sắc khí, hương thơm lan toả khắp mặt sông. Thoạt đầu Đặng Thị hoảng sợ. Sau nàng thấy bình tĩnh lại. Con giao long tạo nên những làn nước như búi dây vô hình quấn riết quanh người nàng. Ngực nàng như bị xiết chặt, dải yếm đứt tung. Nàng cảm nhận được sự mơn man khắp da thịt, có một sự xâm nhập kỳ lạ vào cơ thể. Nàng thấy đê mê, bồng bềnh không trọng lượng tưởng sắp tan biến vào dòng nước.
          Hồi lâu dòng sông Lô lặng sóng. Con giao long biến mất. Lạ quá, trời sập tối. Bóng tối như tấm lụa đen che chở cho nàng về sơn trại tránh mọi con mắt tò mò của sinh linh trên bến, dưới thuyền.
          Sau bận ấy Đặng Thị thụ thai. Trần mừng lắm. Đặng Thị sinh hạ được một cậu con trai khôi ngô. Trần nhớ chuyện gặp mộng ở đền Mẫu quốc bèn đặt tên con là Hãn, lót thêm chữ Nguyên. Nguyên Hãn(4) lớn lên có sức khoẻ hơn người, lại thông minh sáng dạ, vợ chồng Trần Đặng Thị mừng lắm. Nguyên Hãn giúp bố mẹ chăn trâu, kiếm cá và phụ gánh dầu dọc đi bán. Từ bé Nguyên Hãn đã thích tập kiếm cung, võ thuật lại giỏi bơi lội, đi dưới nước như đi trên cạn. Một hôm ngồi trên bến Đông Hồ câu cá, Nguyên Hãn chợt trông thấy giữa dòng nước xiết một xác người trôi dạt lập lờ. Không do dự, Nguyên Hãn ném cần câu lao xuống nước kéo cái xác vào bờ. Đó là một người con gái trẻ bị chết trôi. Nguyên Hãn đưa cái xác lên chôn cất cẩn thận trên bãi cao. Sau khi đắp điếm mồ mả xong xuôi, cảm thương không muốn để tử nữ vô danh Nguyên Hãn bèn đặt cho nàng một cái tên là Duy để ghi lên bia mộ. Nguyên Hãn chắp tay cầu khấn: “Nàng phận bạc, gặp nạn thiệt thân! Ta chẳng cứu được người, chỉ đắp được cho nàng một nấm mồ. Về sau nếu ta có gặp sự rủi ro, mong nàng phù hộ…”.
          Chuyện tưởng thế là thôi nhưng sau này khi đầu quân tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi, một trận bị giặc Minh vây hãm, dùng chó săn truy đuổi Nguyên Hãn phải chui trốn trong hốc cây bồ đề. Khi đàn chó săn đánh hơi sục đến Nguyên Hãn nhẩm khấn gọi tên người con gái chết trôi năm xưa. Bỗng đâu có một con cáo trắng từ trong hốc cây chạy vọt ra dụ đàn chó săn hung dữ đuổi theo. Nhờ vậy mà Nguyên Hãn thoát chết.
          Lại nói thêm về thuở thiếu thời, Nguyên Hãn thường giúp cha mẹ làm ruộng, cuốc nương. Chàng vẫn thường cày cuốc ở khu gò đất hoang gần nhà. Một hôm, Nguyên Hãn đào được một thanh sắt dài, trông từa tựa như lưỡi gươm, đem về cất vào góc nhà. Đêm đến thấy ánh sáng lấp lánh từ thanh sắt toả ra. Đoán là báu vật, Nguyên Hãn giữ gìn cẩn thận, lựa những buổi đêm rỗi việc đem ra mài ở hòn đá lớn cạnh Vụng Tó. Hòn đá mài gươm mòn vẹt đi còn thanh sắt lộ hình lưỡi gươm sáng quắc và sắc như nước. Một lần đi bán dầu qua bến đò sông Phó Đáy đoạn qua làng Phú Hậu gặp lúc lão hàng chài kéo lưới từ dưới sông lên nhặt được cái chuôi gươm, Nguyên Hãn liền đổi ba gáo dầu dọc lấy cái chuôi đem về lắp vào lưỡi gươm vừa khít. Chàng thích lắm luôn đeo thanh gươm bên mình. Một tối Nguyên Hãn đi đặt đó đơm cá, nửa đêm kiểm tra các lờ, đó đều đầy tôm cá nhưng sáng ra thì đã rỗng không. Nghi có trộm, chàng liền để ý đi rình. Đêm sau từ chỗ nấp, chàng thấy có bóng người cao lớn lần tìm những lờ, đó của mình lấy tôm cá ra nhai sống. Nguyên Hãn ập đến rút gươm ra dọa. Trong đêm tối lưỡi gươm toả ra một thứ ánh sáng xanh lạnh sắc. Người kia hoảng sợ khụy xuống không chạy nổi. Thì ra đó là một con ma có dáng hình, mặt mũi kỳ quái. Con ma sợ hãi van nài:
          - Ngài nhờ có gươm thần nên mới bắt được tôi. Nay nếu được tha tội, tôi xin biếu ngài một cái áo. áo này có trăm cái cúc, nếu cài đủ sẽ có sức tàng hình không ai nhìn thấy được.
          Nguyên Hãn nhận cái áo. Quả là nó có thể giúp con người tàng hình. Chàng gọi nó là ma y. Cái áo của con ma đã giúp Nguyên Hãn nhiều lần thoát nạn hiểm nghèo, lập công lớn, chém đứt lìa đầu tướng giặc Liễu Thăng trong trận đánh ở quan ải Chi Lăng sau này.
          Khi Nguyên Hãn mười tám tuổi thì cha mẹ đều chết. Nguyên Hãn dẫn hơn một ngàn quân lặn lội từ miền Sơn Đông, Lập Thạch(5) vào Lam Sơn, Thanh Hoá giúp Lê Lợi lập nghiệp. Nguyên Hãn được Lê Lợi trọng dụng bởi tài năng quân sự xuất chúng, cầm quân bách trận, bách thắng, được giao trọng trách đứng đầu hàng quan võ, cùng ngồi trong trướng với chủ soái bàn việc kín…
Khỏi phải nhắc lại những công danh của Nguyên Hãn, bởi sự ấy mọi người đều rõ.
    *
          Một sáng, cũng phải đến hơn một năm sau ngày lập quốc, Hoàng đế thiết triều với dáng vẻ mệt mỏi. Những năm khởi nghiệp nếm mật, nằm gai, đói rét khiến nhà vua suy kiệt sức lực, lại buồn chuyện Quận vương(6) bậy bạ, lộng quyền, lo lắng bọn Văn Xảo(7) vốn gốc rễ Kinh Lộ sau này có chí khác. Giữa lúc đó thì Nguyễn Trãi dâng biểu tâu việc ghi danh các vị khai quốc công thần để lưu truyền muôn thuở. Liếc thấy tên Nguyên Hãn được viết ở cột nhất, nhà vua chau mày. Khi Nguyễn Trãi lui xuống, nhà vua cầm cây bút lông chấm mực gạch một nét, xoá tên Nguyên Hãn trong bản danh sách công thần. Nguyễn Trãi nhác thấy rùng mình, đổ mồ hôi hột như có cơn gió lạnh chạy dọc sống lưng. Nguyên Hãn đứng ở xa thì bỗng tối tăm cả mặt mũi tựa có ngọn roi quất ngang mặt. Cố ngước lên nhìn nhà vua, Nguyên Hãn kinh ngạc chợt nhận ra dung nhan thật của Hoàng đế thái tổ. Giữa lúc ấy lại nghe như có tiếng nói vang vọng bên tai: “Đế Việt Vương chi tướng, bất khả đồng diệc lạc” (Nhà vua có tướng mạo như Việt Vương, không thể cùng hưởng yên vui, sung sướng được).
          Vậy nên mặc dù được Lê Lợi trọng dụng, Nguyên Hãn vẫn có ý quy hưu. Trước việc Nguyên Hãn cáo quan về vườn nhà vua mừng lắm, coi như bớt một mối lo hậu họa. Nhà vua hạ chiếu cho Nguyên Hãn từ quan về quê, đòi mỗi năm phải về kinh chầu một lần. Hơn mười năm bôn ba chinh chiến, Nguyên Hãn vẫn để vợ con ở Sơn Đông làm ruộng, ép dầu dọc…
Nguyên Hãn về đến bến đò sông Lô thì gặp một cụ già tóc râu trắng như cước chặn lại hỏi:
          - Gươm báu đâu rồi?
          - Ta đã trao cho chủ soái rồi!
          - Thế còn ma y?
          - Cũng đưa để nhà vua lập nghiệp!
          Cụ già nghe vậy lắc đầu thở dài không hỏi thêm nữa và buông áo để Nguyên Hãn đi. Nguyên Hãn đi vài bước quay lại đã không còn thấy cụ già đâu nữa. Nguyên Hãn về làng xây phủ đệ, đóng thuyền đánh cá lại hay tụ tập bạn sơn tràng bàn việc điền viên. Bọn gian thần trong triều vốn căm ghét Nguyên Hãn bởi bản tính cương trực nên mượn cớ ấy để dèm pha khiến nhà vua thấy lòng dạ bất yên. Nhà vua hạ chiếu cho triệu Nguyên Hãn về kinh. Khi nghe quan khâm sai truyền chỉ, lại thấy các lực sỹ xá nhân đao kiếm hầm hè đứng đen trên chiến thuyền đậu ở bến sông Nguyên Hãn liền dặn dò đám gia nhân việc hậu sự, từ biệt vợ con. Ra đến bến sông, Nguyên Hãn ngửa mặt lên trời than:
          - Tôi với vua cùng mưu việc cứu dân, lập quốc! Nay khi việc lớn đã thành, nhà vua sớm quên chuyện đồng cam cộng khổ, lại mưu bức hại tôi. Xin trời cao thấu tỏ!
          Khấn xong cười ha hả mà bước xuống thuyền. Đấm quân binh lấm lét nhìn Nguyên Hãn. Thuyền ra đến giữa sông thì neo lại. Quan khâm sai bảo:
          - Nhà vua ghi nhớ công lập quốc nên cho ngài được chết toàn thây!
          Đoạn sai tứ nhị lực sĩ trói Nguyên Hãn lại. Nguyên Hãn mặt không biến sắc mặc cho bọn lực sĩ bắt trói. Đám lực sĩ  dùng dây thừng xiết cổ để giết chết Nguyên Hãn. Chúng ra sức kéo hai đầu dây. Vòng dây thừng thít chặt cổ mà Nguyên Hãn mãi vẫn không chết. Ngài vẫn cười ha hả mà nói:
          - Ta là con cháu của giao long làm sao giết nổi?
          Đám quan quân, lực sĩ vung gươm đao định chém, Nguyên Hãn bảo:
          - Để ta tự trầm!
          Nguyên Hãn vùng vẫy, dây trói đứt lả tả. Ngài vẫn cười ha hả nhưng nước mắt thì lại trào ra giàn giụa đỏ tươi như máu. Bỗng giông gió nổi lên mù mịt. Cả một đoạn sông Lô ầm ầm tiếng sét nổ, sóng nước cuồn cuộn, thuyền bè chao đảo, tôm cá nhao lên. Đám quan quân triều đình vô cùng hoảng loạn. Nguyên Hãn bước ra mạn thuyền gieo mình xuống dòng sông sâu.
          Một lúc sau, trời trở lại quang quẻ, sóng nước bình yên. Quan quân triều đình trông thấy một con giao long đang từ từ chìm xuống đáy sông, sóng nước trào lên ngầu đỏ.
          Khi Nguyên Hãn nhảy xuống sông tự sát cũng là lúc vua Lê đang ngồi cùng đám cận thần uống rượu. Nâng ly rượu lên định uống, nhà vua chợt kinh hãi nhìn thấy ly rượu của mình đỏ rực màu máu. Nhà vua lập cập buông rơi cái ly. Ly rượu vỡ tan, màu đỏ tràn loang trên nền điện. Hoàng đế buột miệng thốt lên: “Ta chót nghe theo lời sàm tấu vu cáo đã gây nên họa lớn cho Nguyên Hãn mất rồi!”.
*
          Đêm đã về khuya. Sương lạnh ngưng tụ thành giọt rơi lộp bộp ngoài sân.
Câu chuyện của cụ thủ từ Đền Thượng vẫn còn dài. Tôi lặng lẽ ghi chép và cảm nhận sự linh nghiệm như vẫn còn hiện hữu. Ngoài bến Đông Hồ sóng sông Lô vỗ vào bờ đều đều tạo nên những âm thanh day dứt mãi đến muôn đời.
Cụ thủ từ chợt ngừng câu chuyện và bảo tôi: “Thôi chú đi nghỉ đi! Mai là ngày chính giỗ Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn, nghe nói Đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ về thắp hương cùng dân làng Sơn Đông tưởng nhớ người xưa. Hai vị danh tướng ấy tuy âm dương cách biệt nhưng hình như có sự đồng cảm với nhau đấy chú ạ…”.
                                                                 Lập Thạch 12-2006
-----------
Chú thích:
(1)- Tức Trần Án, bố Trần Nguyên Hãn.
(2)- Tức Đặng Thị Hoàn, mẹ Trần Nguyên Hãn.
(3)- Thuộc khu vực núi Tam Đảo, Vĩnh Phúc.
(4)- Tức Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn, nhân vật trong truyện ngắn dã sử này.
(5)- Thuộc tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
(6)- Thái tử Tư Tề, do tính khí ngông cuồng sau bị phế xuống làm thứ dân.
(7)- Tức Phạm Văn Xảo, người nổi tiếng văn thơ và tài năng quân sự ở Thăng Long…