Thứ Tư, 31 tháng 8, 2011

Truyện dài TRONG VÒNG LỬA (phần 10)


Trong vòng lửa
Truyện của Trọng Bảo

        Tôi và Nam cùng nhập ngũ, lại là người cùng làng. Nam kém tôi một tuổi. Nếu xét về  họ hàng xa bắn “ba tầm súng đại bác” thì Nam còn phải gọi tôi là anh họ. Nhưng vì cùng lớn lên chung ngõ, học với nhau từ lớp một cho đến hết cấp ba nên chúng tôi cứ mày tao quen rồi. Khi cùng học phổ thông, Nam học môn toán rất giỏi. Nhiều lần nếu không có nó cho nhìn bài thì chỉ còn nước nộp giấy trắng.
          Tôi chỉ bực tính tình Nam nhút nhát, hay sợ ma. Ngày xưa ở làng quê không có điện. Đêm đến quanh năm ánh đèn dầu lù mù. Buổi tối ngồi học chúng tôi cũng chỉ có ánh sáng của những cái đèn dầu nhỏ như hạt đỗ. Tối nào học nhóm nếu tôi đi qua cổng không gọi thì Nam không dám đi vì con đường sang xóm bên với các bạn cùng nhóm phải đi qua một bãi tha ma chi chít mả cũ, mả mới có những con đom đóm to bằng hạt ngô bay chập chờn xanh lét.
          Vào bộ đội tôi và thằng Nam vẫn ở cùng tiểu đội. Sau thời gian huấn luyện chiến sĩ mới, nhờ năng nổ, xông xáo, xung phong nhận các nhiệm vụ nên tôi được bổ nhiệm giữ chức vụ tiểu đội phó. Còn thằng Nam đã là quân nhân rồi mà mãi cũng không bớt được cái tính nhút nhát. Những ca gác đêm một mình một vị trí, hay đi chuyển công văn khẩn qua cánh rừng hoang vắng là nó rất ngại. Nhiều lần tôi phải đổi phiên gác cho nó, tránh bớt những thời điểm đêm khuya thanh vắng hay các vị trí đứng gác gần bãi tha ma hoặc chỗ ngôi miếu cổ cạnh doanh trại.
          Thằng Nam vẫn có ước mơ làm sinh viên đại học. Nó bảo tôi: “Khi nào ra quân nhất định sẽ thi vào đại học. Em sẽ học ngành nông nghiệp để tìm ra một giống lúa mới có năng xuất thật cao phù hợp với vùng đất phèn chua, lầy thụt quê mình”. Tôi bảo: “Mày chỉ viển vông, chiến tranh đến nơi rồi còn học hành gì nữa! Vứt mẹ nó mấy cuốn sách đi mà đeo thêm vài cân gạo…”. Thằng Nam im lặng không thèm tranh cãi với tôi nữa.
          Tình hình biên giới căng thẳng, chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Mọi sự chuẩn bị cho cuộc chiến đều rất khẩn trương. Để phòng tình huống xấu xảy ra trong chiến đấu, mỗi người chúng tôi đều có một mã số riêng thêu trên nắp túi áo bên trái và in vào mảnh giấy nhỏ bằng ba đầu ngón tay ép plastic để trong túi quần, túi áo. Một hôm, trước chiến tranh sau khi đi nhận quân trang phục vụ chiến đấu gồm các loại tăng, võng, bi-đông về, tiểu đội trưởng Bùi tập trung cả tiểu đội lại cấp phát cho mọi người. Còn một cuộn vải cuối cùng anh bảo:
          - Đây là hai tấm vải liệm dùng để khâm liệm liệt sĩ! Tiểu đội ta được cấp hai cái, giao cho đồng chí Nam và đồng chí Hà mỗi người giữ một cái.
          Nghe vậy cả tiểu đội đều lặng đi. Thằng Nam mặt cắt không còn giọt máu. Tôi cũng hơi thảng thốt nhưng định thần được ngay. Chiến tranh là như vậy. Khi nó chưa nổ ra thì công tác chuẩn bị phải thật chu đáo, tỷ mỷ đến mức tối đa để người chiến sĩ khi vào trận có thể chiến đấu tốt nhất.
          Nghe tiểu đội trưởng giao nhiệm vụ, thằng Nam chối đây đẩy:
          - Em không… không giữ cái đấy đâu…
          Nhìn mặt nó tái dại, đôi mắt hoảng hốt và như sắp phát khóc tôi thấy thương nó quá. Anh em khác trong tiểu đội ai cũng ngại phải giữ tấm vải liệm nên tìm cách lảng đi. Tôi bảo:
          - Thôi được! Không ai muốn giữ tấm vải này thì để tôi giữ cả cho. Sợ cái quái gì cơ chứ!
          Tôi nói cứng và nhận hai tấm vải liệm. Tôi là tiểu đội phó phải có trách nhiệm về công tác hậu cần đảm bảo cho cả tiểu đội. Tôi trải hai tấm vải liệm ra để gấp lại cho gọn. Đó là những tấm vải mỏng gần giống cái vỏ chăn đơn nhưng hẹp hơn. Người ta chỉ may kín hai cạnh, để hở hai cạnh tấm vải. Tấm vải có đính sẵn ba giải dây ở giữa và hai đầu. Khi dùng khâm liệm thì đưa liệt sĩ vào rồi gấp lại rồi dùng ba giải dây đó để bó buộc, rất nhanh.
          Tôi nhét hai tấm vải liệm vào ba lô đeo về nhà ở.
          Tôi mang cái ba lô về nhà ở, thằng Nam vội ôm chăn chiếu chuyển ra một góc nhà sàn nằm. Lâu nay nó vẫn nằm cạnh tôi. Cũng từ ấy không bao giờ nó lục ba lô của tôi tìm lương khô hay lấy kem đánh răng nữa.
          Chiến tranh nổ ra. Những trận đánh vô cùng ác liệt. Quân địch bị tiêu diệt nhiều sinh lực nhưng đơn vị chúng tôi cũng bị nhiều tổn thất. Sau một tuần bị bao vây trong thị trấn Sóc Giang, tiểu đoàn chúng tôi gần cạn hết đạn dược, lương thực, nước uống, quân số bị tiêu hao. Đến ngày thứ tám, chúng tôi được lệnh chuẩn bị rút lui lên núi. Tiểu đội trưởng Bùi thì mất tích sau khi bọn địch chiếm được mỏm Đầu Bò. Tôi được giao phụ trách tiểu đội hữu tuyến điện. Tôi căn dặn từng người:
- Nhớ là cố gắng đem hết súng đạn, lương thực. Cái gì không cần thiết thì bỏ lại vì khi vượt vòng vây chúng ta sẽ phải vượt qua suối và leo lên một vách núi dựng đứng rất khó đi và nguy hiểm.
Chúng tôi khẩn trương chuẩn bị. Quần áo ngoài bộ đang mặc trên người thì thêm một bộ để thay đổi, chỉ đem theo tăng võng, chăn màn vứt bớt, hai cái khăn mặt, hai đôi tất vừa mới phát cũng vứt một, giữ một cho đỡ nặng. Giấy tờ, nhật ký, sổ sách ghi chép chúng tôi đốt hết đi để đề phòng khi phá vây bị bắt lọt vào tay bọn địch. Trong túi quần, túi áo, trong ba lô chỉ còn có những mảnh giấy ghi mã số riêng của từng người.
Trong đêm tối, sau những đợt pháo địch bắn cầm canh, từng tốp nhỏ, chúng tôi tụt khỏi hang đá trên sườn quả núi nhỏ giữa thị trấn băng qua cánh đồng lên dãy núi trùng điệp nơi mà bọn địch chưa chiếm được. Tôi được giao giao nhiệm vụ chỉ huy bộ phận đi cuối cùng khoá đuôi đơn vị, sẵn sàng lập thành một chốt đánh chặn địch truy kích cho đơn vị rút lui an toàn. Tôi bảo anh em trong tiểu đội:
- Nhớ bám sát nhau nhé! Lúc qua bản Nà Liền phải hết sức nhẹ nhàng tránh gây tiếng động chó sủa, bọn địch phát hiện.
Tôi kéo tay thằng Nam khẽ dặn:
- Đi sát ngay sau tao nhé!
- Vâng! A… n…h… cứ… yên… tâm.
- Sao mày có vẻ run lập cập thế?
- Em thấy hơi sợ…
- Không việc gì đâu, đừng lo!
Tôi động viên thằng Nam. Suốt tuần vừa rồi nó là chiến sĩ thông tin trực máy ở sở chỉ huy tiểu đoàn nên chưa phải trực tiếp đánh trận nào.
Đúng như chỉ huy tiểu đoàn đã tính toán. Đơn vị chúng tôi bí mật vượt qua vòng vây của địch một cách an toàn. Chúng tôi phải mất gần như suốt đêm mới vượt qua được vách núi cheo leo, đá tai mèo sắc như dao để lên lũng Mật. Trời sáng rõ. Sương mù tan. Nhìn xuống dưới cánh đồng thấy rõ cả xe tăng và bộ binh địch đang lúc nhúc hành quân. Thỉnh thoảng tiếng pháo lại nổ chói tai vì bắn vào vách đá và gây nên những vọng âm mãi mới tan làm màng nhĩ tai u u rất khó chịu.
Chúng tôi được lệnh dừng lại nghỉ. Trời rét lắm lại ở núi đá nên càng thêm lạnh buốt. Tôi vội cùng anh em tìm những khe đá hơi bằng phẳng rải tăng võng ra để nằm tranh thủ ngủ để tối đến còn hành quân tiếp hoặc xuống bản tìm kiếm lương thực. Chợt thấy thằng Nam ngồi co ro ở một góc khe đá tôi hỏi:
- Mày tìm chỗ phẳng trải tăng võng ra mà nằm ngủ một lát cho đỡ mệt đi chứ! Tối nay còn đi lấy gạo đấy.
- Lúc vượt qua suối vì đỡ một anh thương binh trượt ngã, cái ba lô của em bị trôi mất rồi.
- Thế thì nằm vào đây với tao cho khỏi rét mà ngủ.
Thằng Nam vừa chui vào nằm xuống cạnh tôi đã bật dậy hốt hoảng:
- Anh… anh… đắp bằng tấm vải liệm à?
Thì ra nó vừa nằm xuống thì cái dây buộc của tấm vải liệm loằng ngoằng vướng ngay vào cổ. Tôi phì cười:
- Nó chỉ là một tấm vải thôi, việc gì mà sợ! Nằm xuống đi cho ấm!
Nam lùi ra ngồi dựa vào một mô đá và chối đây đẩy:
- Thôi… thôi… anh cứ ngủ đi… em chịu thôi…
Tôi cáu vì cái tính nhút nhát của nó:
- Thế thì mặc xác mày!
Nói vậy nhưng tôi cũng không ngủ được. Tôi ngồi dậy lột cái võng đang rải ném cho nó. Đoạn tôi chui hẳn vào trong tấm vải liệm, nửa rải, nửa đắp rồi ngủ thiếp đi vì mệt.
Đơn vị chúng tôi cứ ban ngày thì ẩn nấp trong các thung lũng, khe đá, buổi tối thì chuyển quân sang vị trí khác tránh sự truy kích của bọn địch và tổ chức cho các bộ phận đột nhập xuống bản tìm lương thực. Nhiều hôm chạm địch không lấy được lương thực mà còn tổn thất thêm lực lượng. Quân số của đơn vị cứ vơi dần sau những chặng hành quân gian khổ trên vách đá núi cao đói rét và bị địch đuổi đánh. Một số anh em lực lượng thanh niên xung phong bị thất lạc chạy lên núi cũng nhập luôn vào đội hình đơn vị chúng tôi.
Sau trận đơn vị bị lực lượng tinh nhuệ của địch tập kích vào đội hình trú quân thì cả hai tấm vải liệm của tiểu đội tôi đều được sử dụng hết. Cũng từ sau hôm ấy thằng Nam mới dám nằm gần tôi. Hai đứa đắp chung một cái võng mỏng manh. Lúc tạnh thì tăng rải làm chiếu, võng làm chăn cho ấm. Lúc mưa thì rải võng làm chiếu, tăng làm chăn đắp cho khỏi ướt. Mùa Xuân năm ấy sao mà mưa rét đến thế. Cái rét, cái đói hành hạ chúng tôi ngày càng khốn khổ. Rồi cả cái võng hai đứa đắp chung ấy cũng không còn. Chúng tôi không nỡ để một cô thanh niên xung phong nằm xuống không có cái gì bó buộc.
Một buổi sáng còn sương muối còn mù mịt thì trợ lý tham mưu Thọ bảo tôi:
- Hà ơi đi ngay với tao nhanh lên!
- Đi đâu hả anh?
- Đi xuống bản Nà Sác! Tối hôm qua bộ phận của thằng Nam theo lệnh của tiểu đoàn đột nhập xuống bản trinh sát địch và tìm kiếm lương thực đến giờ vẫn chưa thấy thằng nào về! Nhất định là có chuyện không hay xảy ra rồi.
Khi rút lên trên núi, thằng Nam được điều lên làm liên lạc cho tiểu đoàn trưởng, biên chế vào bộ phận do anh Thọ phụ trách. Tôi vội vàng xách súng theo trợ lý Thọ và một chiến sĩ trinh sát tiểu đoàn tụt xuống dốc núi. Chúng tôi tìm được chiến sĩ Lai nằm gục ở chân dốc. Cái ba lô gạo đeo trên lưng thấm máu. Lai bị thương nhẹ vào đùi nhưng vì đói và kiệt sức quá nên lả đi không leo lên núi được. Lai thều thào cho chúng tôi biết hai người vào bản lấy được gạo, ngô quay ra thì gặp địch. Nam đã quay chặn địch và bảo Lai rút lui. Nam đã dũng cảm chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Nam bị bọn địch bắn chết bên bờ suối.
Mãi đến tối chúng tôi mới tiếp cận được chỗ Nam hy sinh. Chúng tôi đưa Nam qua suối, rửa mặt cho Nam. Chúng tôi dùng dây võng buộc chặt Nam vào người thay nhau cõng nó lên núi.
Chúng tôi dùng xẻng bộ binh đào một cái rãnh trong khe đá đặt Nam xuống. Không còn một tấm vải liệm nào. Trước khi lấp đất, tôi rút cái khăn mặt duy nhất của mình trong ba lô ra phủ lên mặt cho Nam.
Sau chiến tranh, Nam đã được đưa về quê hương. Hài cốt của nó được gói trong tấm vải liệm bằng lụa đặt trong hộp gỗ sạ hương phủ quân kỳ và mai táng trong nghĩa trang liệt sĩ. Nhưng câu chuyện về Nam và tấm vải liệm chỉ có tôi mới biết.
(còn nữa)                                                     
                                

Thứ Ba, 30 tháng 8, 2011

Truyện dài TRONG VÒNG LỬA (phần 9)

    


Trong vòng lửa
Truyện của Trọng Bảo

Chính trị viên Hoàng là một người điềm tĩnh. Sự điềm tĩnh của anh khiến những người bình tĩnh nhất nhiều khi cũng hoang mang. Những lúc tình hình gấp gáp, tình huống lâm nguy nhất anh vẫn không rối trí, nét mặt không thay đổi. Tôi còn nhớ hôm sở chỉ huy của tiểu đoàn bị bao vây vòng trong, vòng ngoài, bộ binh địch bu đen như kiến, xe tăng của chúng châu nòng pháo bắn liên tục vào cửa hang. Khói bụi xộc vào cái hang núi thẳng đuột từ cửa chính phun ra phía cửa phụ, cuồn cuộn như khói trong ống khói. Nhiều người tưởng ngạt thở đến nơi rồi. Bộ binh địch bắt đầu đeo bám vào vách đá leo lên gần cửa hang. Trong hang có người đã buột miệng kêu lên những tiếng thảng thốt, tuyệt vọng.
Trong khi đó chính trị viên Hoàng vẫn bình tĩnh như không. Lúc này anh là người chỉ huy cao nhất tại sở chỉ huy tiểu đoàn. Tiểu đoàn trưởng Thêm đêm hôm trước đi kiểm tra trận địa của đại đội 4 chưa thấy trở về. Có lẽ anh bị mắc kẹt trên núi do mũi tiến quân của bọn địch lên mỏm Đầu Bò cắt ngang con đường độc đạo từ hang chỉ huy tiểu đoàn lên vị trí bố trí hoả lực của đại đội 4.
Chính trị viên Hoàng hỏi bộ phận thông tin của chúng tôi:
- Vẫn giữ được liên lạc bằng vô tuyến với các đơn vị chứ?
- Vâng ạ!
Anh Cường, tiểu đội trưởng tiểu đội vô tuyến sóng cực ngắn đáp.
- Cố gắng giữ liên lạc nhé! Mất liên lạc lúc này là mất luôn trận địa đấy.
- Báo cáo! Đại đội 2 xin hoả lực bắn mạnh vào toạ độ M ạ!
- Hả! Hỏi lại ngay, bắn vào đấy tức là bắn thẳng vào trận địa của đại đội 2 đang phòng ngự à?
Anh Hoàng lệnh cho bộ phận thông tin điện hỏi lại. Chiến sĩ thông tin vô tuyến sau khi kiểm tra lại thông tin từ đại đội 2 lập tức báo cáo:
- Bọn địch đã tràn lên trận địa phòng ngự của đại đội 2 rồi. Đại đội trưỏng Bổn xin pháo bắn trùm lên trận địa của đơn vị ạ!
Chính trị viên Hoàng hơi nhíu mày. Tình hình thật là nguy ngập. Cả hang chỉ huy tiểu đoàn ắng hẳn đi. Theo lệnh của chính trị viên tiểu đoàn, số anh em thông tin chúng tôi chỉ để lại một chiến sĩ vô tuyến còn thì tất cả ra cửa hang chính tham gia chặn địch cùng các chiến sĩ đang phòng ngự ở đây. Tôi và thằng Minh lựa lúc bọn địch ngớt bắn một chút nhao ra tụt ngay xuống gộp đá to bên trái cửa hang. Trợ lý tham mưu Thọ đang chỉ huy bộ phận chiến đấu ở đây. Vừa nhìn thấy tôi, anh Thọ đã quát:
- Thâm thấp cái đầu xuống kẻo bọn nó mượn mất cái đội nón bây giờ!
Tôi thở hổn hển hỏi lại:
- Tình hình thế nào hả anh?
- Nó đông bỏ mẹ, cứ đà này không biết có giữ được đến tối không! Mày nhìn mà xem kìa!
Tôi hơi nhô người lên nhìn theo tay anh chỉ. Phía trước trận địa của đại đội 2 hàng chục chiếc xe tăng của địch đang lổm ngổm bò vào. Hai chiếc xe tăng đang sục đầu xuống dòng suối vượt sang thị trấn. Còn trên cánh đồng dưới chân đồn công an vũ trang hơn chục chiếc xe tăng địch đang chĩa nòng pháo hướng lên chỗ chúng tôi đang phòng ngự. Bộ binh địch vừa đánh lên trận địa của đại đội 2, vừa tổ chức bắn vào khu đồi cửa hàng thực phẩm. Đội hình tiến công của chúng hướng về phía hang chỉ huy của tiểu đoàn.
Trợ lý Thọ hỏi:
- Mày kiểm tra xem có viên đạn lửa nào không đưa cho tao. Có mấy thằng đang nấp sau cái cây rơm dưới chân núi kia. Kiếm tao viên đạn lửa tao bắn cháy cái cây rơm, dọa cho chúng nó một phen...
Tôi định nhô lên để quan sát thì anh Thọ kéo ngồi thụp xuống:
- Mày muốn chết à. Chúng nó bắn tỉa lợi hại lắm đấy.
Tôi nghiêng người tìm băng đạn trong bao-xe đưa cho anh Thọ. Trong băng có mấy viên đạn có vạch sơn màu đỏ. Anh Thọ thay băng đạn mới. Anh bò sang bên trái gộp đá tìm vị trí thuận lợi điểm xạ liền mấy loạt vào cái cây rơm ở chân dốc núi. Rơm khô bốc cháy rần rật. Mấy tên lính đặc nhiệm của địch chạy toé ra, rạt về phía sau.
Tôi và anh Thọ đang khoái trí cười ngặt nghẽo thì một trận pháo kích dữ dội của địch trùm lên cả quả núi hang chỉ huy. Khói bụi, đất đá văng mù mịt. Anh Thọ quát:
- Tất cả rút vào trong hang tránh pháo ngay!
Các chiến sĩ ở hai bên cửa hang vội nhào vào trong hang. Tôi vừa lao lên thì đạp luôn vào một hòn đá đã bị đạn địch bắn lỏng chân. Hòn đá trượt xuôi kéo tôi tụt theo xuống một đoạn. Tôi cố toài người bò lên dốc. Đá tảng từ trên đỉnh núi lăn tồng tộc xuống như bẫy đá tuột dây. Anh Thọ gào lên:
- Hà ơi! Cố leo lên hang ngay, nhanh lên.
Tôi cố miết mũi giày vào vách đá nhao lên. Chật vật một lát tôi cũng bám vào được một mô đá sát cửa hang. Anh Thọ giơ tay cho tôi bám rồi kéo vào hang. Tôi vừa nhào người lăn được vào trong cửa hang thì một quả đạn pháo địch choảng đúng ngay sát cửa hang. Khó bụi mù mịt cuồn cuộn xộc vào trong hang. Hú vía. "Mẹ kiếp! Chỉ chậm vài giây thì mình tan xác với chúng nó!". Tôi lẩm bẩm.
Anh Thọ bảo:
- Cố giữ được đến tối là yên tâm.
- Sao lại chỉ cần giữ đến tối hả anh?
- Đó là mệnh lệnh của chính trị viên Hoàng.
Tôi nhìn vào giữa hang. Chính trị viên Hoàng tay chắp sau lưng đi đi lại lại có vẻ anh đang phải suy tính điều gì đó rất căng thẳng.
Có điện từ xê 2. Bọn địch tổ chức tấn công vào trận địa rất ác liệt. Khả năng không giữ nổi nữa. Đại đội hoả lực đã cạn kiệt đạn cối 82 nên cũng chả chi viện cho đại đội 2 được nữa. Chính trị viên Hoàng quyết định thành lập một tiểu đội cơ động chiến đấu chi viện cho đại đội 2. Đó là các chiến sĩ thông tin, trinh sát, vận tải đang có mặt trong hang. Trọng, tiểu đội phó truyền đạt được chỉ định chỉ huy. Trọng dẫn năm chiến sĩ tụt cửa hang phụ vòng phía sườn trái mỏm núi tụt xuống núi đánh địch chi viện chia lửa cho đại đội 2. Bộ phận chiến đấu nhỏ nhoi của Trọng ôm B41 vận động dọc theo con mương nhỏ phía trước nhà bưu điện thị trấn. Họ lợi dụng các bờ ruộng bò ra giữa cánh đồng để chặn bắn những chiếc xe tăng của bọn địch đang vượt qua con suối cạn đánh tạt sườn bên trái đại đội 2.
Với hai khẩu B41 và vài quả đạn năm chiến sĩ cảm tử ấy đã bắn cháy, bắn đứt xích ba chiếc xe tăng của bọn địch khi chúng vừa nhô lên khỏi dòng suối cạn. Tuy nhiên, thấy hoả lực của ta bất ngờ giữa cánh đồng, bọn bộ binh giặc từ các ngõ ngách trong thị trấn lao ra bắn xối xả. Từ trên cửa hang chúng tôi nhìn rất rõ từng chiến sĩ trong tiểu đội cảm tử ngã gục giữa cánh đồng. Cảnh những người lính đau đớn giãy giụa trước khi chết trông thật xót thương và đau nhói trong tim. Có một người bị thương, cánh tay đỏ máu cứ giơ lên hướng lên phía cửa hang vẫy vẫy có vẻ cầu cứu nhưng chúng tôi không thể xuống được. Cái chết đến với anh ấy thật chậm chạp. Anh giãy chết ngay trước mắt chúng tôi.
Trên mỏm đồi đại đội 2 chốt giữ súng vẫn nổ. Như thế là đại đội 2 vẫn giữ vững được trận địa. Sau này tôi mới biết để giữ vững trận địa trong vòng hai tiếng đồng hồ chờ trời tối gần một nửa đại đội 2 đã hy sinh. Trong đó có Trần Công Tân, người bạn thân cùng nhập ngũ với tôi. Gần một nửa đại đội hy sinh, cái giá thật đắt, thật đau. Vị trí chỉ huy tiểu đoàn của chúng tôi được bảo vệ đến tối là nhờ một nửa đại đội 2 và những chiến sĩ tiểu đội cảm tử hy sinh như thế.
Chính trị viên Hoàng căn dặn trung đội trưởng trung đội vận tải:
- Bằng mọi giá tối nay cũng phải lấy cho được thi hài năm đồng chí đưa đi mai táng nhé!
Trung đội trưởng Hanh hứa nhất định sẽ hoàn thành nhiệm vụ. Anh Hoàng cũng dặn tôi điện ngay cho chỉ huy đại đội 2 bằng mọi cách phải chôn cất hoặc đem các liệt sĩ, đưa thương binh ra khỏi trận địa. Đại đội 2 là đơn vị cuối cùng của tiểu đoàn rút lui ra khỏi thị trấn Sóc Giang. Họ đã chiến đấu kiên cường nơi cửa ngõ thị trấn cho các đơn vị rút đi.
Cuộc rút lui của đại đội 2 vô cùng gian khổ. Bởi gần như trên lưng tất cả những người lính đại đội 2 rút ra khỏi trận địa là xác một người đồng đội của họ. Những cái xác được buộc chặt trên lưng người lính chiến. Họ phải vừa cõng đồng đội vừa đánh địch trên đường máu rút lui. Có nhiều viên đạn, mảnh pháo giặc đã không găm được vào thân thể người còn sống nhờ những người đã chết vẫn chở che cho họ trong một cuộc phá vây vượt ra khỏi cái thị trấn biên giới hoang tàn nhung nhúc những tên xâm lược. Bọn chúng đông và nhiều như giòi bọ, kiến cỏ.
Chúng tôi đón các chiến sĩ của đại đội 2 ở chân núi đá lối lên Lũng Mật. Nhìn đội hình những người từ trong vòng lửa vượt ra tơi tả, trên lưng cõng liệt sĩ, chính trị viên Hoàng ngậm ngùi nói với chúng tôi:
- Họ đã chết cho chúng ta sống để rút lui an toàn đấy! Không được một ai quên điều này...
Chúng tôi lầm lũi đi trong đêm đầy gió bấc. Cái lạnh lùng của sương gió, cái chết chóc của chiến tranh vây bủa xung quanh. Và, cái chết luôn đồng hành cùng chúng tôi suốt chặng đường chinh chiến gian lao. Lời căn dặn của chính trị viên Hoàng khiến tôi cứ thấy nao nao trong lòng. Nhìn những thi thể đồng đội tả tơi đẫm máu và lấm láp đầy bùn đất, tôi cứ nghĩ mãi về số phận của con người trong chiến tranh. Nó nhỏ nhoi và mong manh quá. Nhưng nó cũng thật là bi hùng, vĩ đại quá. Cái chết chẳng còn là gì so với những con người đã dám đối mặt với nó trong từng trận đánh giữa vòng đạn lửa tơi bời.
Tôi chợt nhớ tới Mai. Em cũng đã hoá thân vào trời đất bao la trong một trận đánh không cân sức. Em đã đi rất xa, rất xa rồi. Nhưng hơi thở của em vẫn đang ấm nóng ở trên vai tôi. Em như đang ở đâu đây cùng những người lính chiến. Đôi mắt sáng trong của em như vẫn dõi theo tiếp sức cho tôi suốt chặng đường hành quân đầy gian khổ.
Dọc lối mòn ngược lên đỉnh núi, những mô đá lô nhô trong đêm trông tựa như những nấm mồ liệt sĩ lạnh lẽo nhưng điềm đĩnh kiên gan trấn trạch ở nơi biên ải...
(còn nữa)

Thứ Hai, 29 tháng 8, 2011

Truyện dài TRONG VÒNG LỬA (phần 8)


Trong vòng lửa
Truyện của Trọng Bảo


Khi sương mù vừa tan thì tiếng súng nổ chát chúa khắp Lũng Mật. Đó là tiếng súng 12ly7 và tiếng cối 60. Thung lũng mù mịt lửa khói. Tiếng kêu hoảng loạn của nhiều người vang lên.
Khi xác định được hướng bắn của bọn địch chúng tôi càng sợ. Bọn địch đã vác được súng 12ly7, đại liên và cối 60 lên một mỏm núi cheo leo dốc đứng đầu Lũng Mật mà từ đây chúng có thể khống chế toàn bộ Lũng Mật. Bọn này chắc chắn phải là lực lượng đặc nhiệm tinh nhuệ của quân địch.
Chúng tôi vội ép người sau các mô đá chống trả. Nhưng có nhiều người nấp sau mô đá vẫn bị trúng đạn của bọn đang ngồi trên cao. Những viên đạn bắn tỉa của chúng xỉa xuống khá chính xác. Tiểu đoàn trưởng Thêm và chính trị viên Hoàng lệnh cho các đơn vị vượt qua đoạn dốc yên ngựa rút đi. Nhưng nếu không khống chế được hoả lực địch trên mỏm núi đầu Lũng Mật thì đội hình leo lên dốc sẽ làm những tấm bia sống cho bọn giặc thử súng.
Trong lúc tình hình vô cùng nguy ngập ấy, đại đội trưởng Bàng đi đến một quyết định táo bạo. Anh lệnh cho một khẩu đội 12ly7 vòng ra phía sau lưng địch. Họ leo lên một mô đá trống trải phơi mình ra cho bọn bắn tỉa. Nhưng từ đây họ có thể dùng hỏa lực mạnh bắn thẳng lên mỏm núi bọn địch đang đặt hoả lực khống chế bộ đội ta ở Lũng Mật.
Khẩu 12ly7 do đại đội trưởng Bàng chỉ huy bắt đầu lên tiếng. Đạn 12ly7 nổ choang choác xả vào vị trí của bọn địch. Bị bất ngờ, bọn địch trên mỏm núi lúng túng. Chúng phải quay súng về phía mô đá. Lợi dụng cơ hội đó, tiểu đoàn trưởng Thêm lệnh cho các bộ phận nhanh chóng vượt qua dốc yên ngựa rút sang thung lũng bên cạnh. Chúng tôi chạy gằn trên đoạn dốc trống trải, vừa chạy vừa tránh đạn địch. Đó là một cuộc chạy đua với cái chết thực sự. Cứ chạy một đoạn chúng tôi lại nằm sấp xuống mặt đường tránh đạn. Đạn bắn xối xả, khói bụi mù mịt. Vẫn có những người bị trúng đạn chới với ngã gục xuống mặt đường hoặc lăn nhào xuống sườn núi. Linh tính hình như giúp tôi thoát khỏi những loạt đạn bắn đuổi của bọn địch. Tôi đeo ba lô, xách súng, chạy ngược dốc. Cứ chạy được một đoạn khi tôi vừa nằm ép xuống mặt đường thì đạn lại bắn chiu chíu ngay sát trên lưng, lá cây ven đường rụng lả tả. Thật may, lần nào cũng thoát cả. Thằng Hoà, trợ lý chính trị tiểu đoàn chạy trước tôi. Khi nấp được sau một mô đá khá an toàn, nhìn thấy tôi lúc chạy gằn, lúc nằm bẹp xuống mặt đường nó bèn gọi to:
- Hà ơi! Cứ bình tĩnh mà chạy lên đây, tao yểm hộ cho...
Nó cầm khẩu M79 giơ giơ lên động viên tôi. Tôi nghe tiếng nó gọi vừa ngước lên nhìn nó thì nghe rầm một tiếng. Quả đạn cối 60 nổ ngay trên vách núi gần chỗ nó đang nấp. Khói bụi mù mịt. Tôi hốt hoảng nghĩ: "Thôi chết! Không khéo thằng này tan tành thành từng mảnh mất rồi!".
         Lợi dụng địch vừa ngừng bắn, tôi nhỏm ngay dậy lao lên. Lúc tôi lăn được sang phía bên kia dốc yên ngựa, khuất hẳn tầm bắn của bọn địch thì gặp thằng Hoà đang ngồi thu lu trong một hẻm đá. Thấy nó không bị sây sát gì tôi mừng lắm. Tôi bảo:
- Chờ mày yểm hộ thì tao toi mạng từ đời tám hoánh nào rồi...
Nó cười hề hề tuy mặt thì vẫn còn tái đi:
- Nói thế để cho mày yên tâm! Tao chỉ còn mỗi hai viên đạn thì yểm hộ cái cóc khô gì được nữa chứ? 
- Thảo nào nó mới choang cho một quả cối mày đã chuồn nhanh thế!
- Hì... suýt nữa thì tao tan xác với nó đấy! Mà này, đói chưa?
- Từ sáng đến giờ nó choảng cho tối mắt, tối mũi đã kiếm được cái gì cho vào bụng đâu!
Thằng Hoà lục cóc ba lô lôi ra nửa con gà luộc. Nó xé đưa cho tôi cái đùi và bảo:
- Hôm qua xuống bản, bà con cho đấy! Mày ăn lấy một miếng đi.
Thịt gà ăn vã, không muối, nhạt bã ra trong miệng.
Đến gần trưa thì các bộ phận đều rút ra khỏi được Lũng Mật. Cũng chẳng biết ai hy sinh, ai bị thương nữa. Tôi kiểm tra bộ phận của mình thấy còn đủ là biết an toàn thôi. Chúng tôi tiếp tục đi tìm vị trí ẩn náu mới tìm thời cơ phá vây rút lui sang Nguyên Bình theo mệnh lệnh của trung đoàn.
Buổi chiều, tôi và thằng Quý đang đi tìm kiếm mạch nước thì gặp anh Bàng trong một khe núi. Tay trái anh băng kín treo lên cổ. Tôi liền nhao đến hỏi:
- Anh bị thương à?
- Gãy mẹ nó một tay rồi mày ạ!
- Trúng đạn à?
- Đạn nào bắn trúng tao được. Lúc tao lăn từ mô đá xuống bị ngã đấy!
- Anh phải cố định thật cẩn thận đấy!
- Mẹ kiếp! Kiểu này thì leo vách đá thế quái nào được nữa. Mà tao cũng đếch cần rút lui nữa. Bọn chúng truy đuổi đến đây tao thí mạng với chúng luôn. Tay phải tao vẫn bắn súng ngắn tốt, mày yên tâm...
Tôi định chào anh để đi thì nhác thấy bóng cô tiểu đội trưởng dân quân bản Táp Ná đang lúi húi mắc võng trong khe đá. A! Ông này số vẫn đào hoa ghê, bọn địch đuổi đến đít rồi vẫn có gái đi theo. Tôi nháy mắt khẽ nói:
- Bây giờ chắc không lo bị bắt quả tang nữa anh nhỉ?
- Dân quân các bản cũng đã chạy hết lên núi cùng bộ đội. Cô ấy đến giúp đại đội tao khoản hậu cần ấy mà...
- Cả cái khoản... XYZ nữa chứ?
- Thôi mày biến đi! Đánh nhau mệt bỏ mẹ còn XYZ gì được nữa! 
Tôi bữu môi:
- Mỡ đến miệng mèo kiêng làm sao được... hi...hi... khởi động tý leo núi càng khỏe...
Tôi vừa quay đi thì anh gọi giật lại:
- Khoan đã, quay lại tao bảo.
Tôi dừng lại. Anh Bàng rút từ cái túi đeo bên người đưa cho tôi một cái gói nhỏ và dặn:
- Ruốc bông trộn mỳ chính đấy! Lúc nào đói khát và mệt quá thì ngậm một nhúm vào miệng cho lại sức. Nhìn mày ốm yếu thế này tao lo lắm!
           - Vâng... anh phải cẩn thận nhé!
           - Mày cũng phải cẩn thận đấy! Nghe nói mày hay liều lĩnh lắm phải không?
- Em có liều gì đâu?
- Bọn chúng nó nói hôm nọ mấy thằng chúng mày xuống bản Nà Nghiềng bị một trận hút chết hả?
- Hì... tại hôm ấy đói quá...
- Đói thì đói cũng không được chủ quan nhá!
Nghe anh Bàng dặn, tôi ậm ừ để anh yên tâm. Nhớ lại hôm ở Nà Nghiềng tôi cũng thấy sởn gai ốc. Hôm đó khi trời vừa mới nhá nhem tối, tôi, thằng Quý và hai chiến sĩ đã tụt xuống núi. Nhiệm vụ của chúng tôi là tìm cách trở lại vị trí kho quân khí của tiểu đoàn để tìm đạn súng bộ binh và lựu đạn chuẩn bị cho cuộc phá vây. Chúng tôi lần mò theo con mương nước mà hôm trước đã theo nó để rút ra. Bọn địch đã chiếm được thị trấn đổ nát không còn quân ta. Lực lượng của chúng còn lại phòng ngự thưa hơn. Sau khi tìm được mấy hòm đạn AK, tôi bảo:
- Vào bản kiếm cái gì ăn đã, đói lắm rồi!
- Nhưng lỡ chạm bọn địch thì sao?
Thằng Quý gàn. Tôi nói:
- Đừng sợ! Bọn chúng tưởng quân ta đã rút hết rồi nên để lại rất ít lực lượng ở thị trấn. Ta vào bản Nà Nghiềng xem kiếm được cái gì ăn rồi rút luôn.
Đúng như tôi nghĩ, bản chẳng có một bóng người. Bầu trời sáng lờ mờ. Ánh trăng xuyên qua làn sương mù dày đặc. Các lối đi trong bản cây cối bị đạn bắn đổ ngổn ngang. Chúng tôi phải lách người len lỏi trong đống đổ nát. Trong cảnh hoang vắng chết chóc, sương rơi ướt vai áo làm cho chúng tôi càng thấy lạnh lẽo, cô quạnh. Vừa lặng lẽ bước đi tôi vừa chú ý quan sát, nghe ngóng. Chúng tôi leo lên một ngôi nhà sàn kiếm được một ít ngô thì nghe tiếng chạy huỳnh huỵch dưới gầm sàn. Tôi hỏi:
- Thằng nào chạy đi đâu đấy?
- Không... không... phải quân ta, bọn địch đấy!
Tiếng thằng Quý líu cả lưỡi đi vì sợ. Tôi vội nhô ra nhìn xuống gầm sàn. Bóng mấy tên lính địch đang vác súng cối chạy qua vườn chuối vào gầm ngôi nhà sàn mà chúng tôi đang ở trên. Bỏ mẹ rồi, tôi nghĩ bọn này từ đâu xông vào bản vậy. Vào đến gầm ngôi nhà sàn, chúng dừng lại soi đèn pin loang loáng. Hình như chúng định nghỉ đêm dưới gầm nhà. Một thằng trải tấm bạt ra nền đất. Có ánh đèn chiếu ngược lên sàn. Chúng tôi phải nằm ép người xuống sạp nứa không dám thở mạnh. Tôi nghĩ, nếu mà mấy thằng này leo lên nhà thì mình toi mạng hẳn. Tôi lần thắt lưng tìm quả lựu đạn mỏ vịt. Tôi đã tính đến tình huống xấu nhất là sẽ thả quả lựu đạn xuống đầu bọn địch rồi nhảy xuống đất tháo chạy. Tôi khe khẽ sờ tay thằng Quý vỗ vỗ ra hiệu cho nó. Thằng quý hơi gật gật đầu vẻ hiểu ý định của tôi.
Tôi và mấy chiến sĩ vẫn nằm. Dưới gầm nhà sàn tiếng bọn địch trao đổi với nhau rì rầm. Không hiểu bọn chúng nói với nhau cái gì. Đột nhiên có một tiếng hô khẩu lệnh. Chắc là tiếng của thằng chỉ huy khẩu đội. Mấy thằng đang nằm ngồi vội bật dậy. Chúng nhanh chóng thu khẩu cối và trang bị vác lên vai. Hình như bọn này lại chuẩn bị cơ động. Đúng vậy. Bọn chúng chui ra phía bên trái ngôi nhà, lối đường ra thị trấn. Tôi kéo tay thằng Quý thì thào:
- Mày và hai thằng nhanh chóng rút ngay ra phía mương nước để tao xử lý mấy tên địch này nhé!
- Nguy hiểm lắm! Đi ngay thôi anh ơi!
Mặc cho Quý gàn, tôi nhỏm dậy lao ra phía đầu nhà. Mấy tên địch đang lui cui vác súng chạy xuống dốc. Tôi rút chốt quả lựu đạn tung theo. Khi tiếng nổ vang lên thì tôi đã chạm chân xuống đất. Tôi lao luôn về phía mương nước.
Sau tiếng nổ, từ các vị trí phòng ngự tiếng súng của bọn địch bắn rầm rầm vào bản Nà Nghiềng. Chúng tôi chạy hút hơi ra theo con mương ra cánh đồng để vượt lên núi. Cũng may là không vấp phải toán lính địch nào chặn đường. Bọn địch chỉ từ các điểm cao đổ đạn vào bản Nà Nghiềng và sang phía núi đá.
Đến điểm hẹn ở chân núi đá tôi đã thấy Quý và hai chiến sĩ đang chờ ở đó. Thằng Quý hổn hển hỏi:
- Mấy thằng giặc ấy chắc toi hết cả chứ anh?
- Tao cũng chẳng kịp nhìn xem nó có chết hay không! Chạy một phen hết cả hơi mới ra đến đây đấy.
- Anh liều lĩnh quá!
Một chiến sĩ nói. Tôi bảo:
- Thôi rút lên núi ngay. Cấm không được thằng nào báo cáo việc này với chỉ huy tiểu đoàn nhé!         
Cũng may hôm ấy không xảy ra thương vong gì. Việc chúng tôi mang được mấy hòm đạn về còn được tiểu đoàn trưởng biểu dương nữa... Ấy thế mà anh Bàng lại biết chuyện. Chắc là anh lại nghe thằng Quý bép xép.
Gói ruốc của anh Bàng tôi đã giữ suốt thời gian trong vòng vây. Khi nào thật cần thiết chúng tôi mới chia nhau một nhúm lấy chất muối để đánh lừa cái lưỡi. Cuộc hành quân trên dãy núi đá thật gian khổ. Đôi chân rã rời vì lao núi suốt ngày đêm. Cái đói, cái khát rồi những lần giặc đuổi chạy đến hút hơi, thở không kịp tôi càng thấy giá trị của gối ruốc bông ấy.

(còn nữa)

Thứ Bảy, 27 tháng 8, 2011

Truyện dài TRONG VÒNG LỬA (phần 7)

     

Trong vòng lửa 
Truyện của Trọng Bảo
 
 
        Những ngày chúng tôi ở Lũng Mật thật là khốn khổ. Thiếu lương thực. Thiếu nước. Vách núi đá vôi khô khốc. Chỗ khe đá có nhiều cây nhất Lũng Mật nước hơi ri rỉ ra cả ngày được độ vài xô nước. Khi bộ đội chưa lên bà con ở Lũng Mật thường dùng nước mưa là chủ yếu. Nước mưa được hứng cho chảy vào các bể xây bằng xi măng. Bể nào to cũng chỉ độ một mét khối. Bây giờ bộ đội và dân chạy loạn kéo lên cả trăm người thì lượng nước dự chữ của bản cũng cạn dần. Buổi tối chúng tôi phải tụt xuống tận dòng suối chỗ Mỏ Nước để lấy nước. Từ hôm bọn biệt kích phát hiện bắn chết mấy chiến sĩ và một cô thanh niên xung phong thì việc đi lấy nước phải tạm dừng lại.
Nằm ở các khe đá, hoặc giữa các mô đá mồ côi nhấp nhô trong thung lũng, một anh thương binh nằm trong khe đá tỷ mẩn quan sát những cây dương xỉ bám trên đá. Anh thấy những cái rễ loà xoà trùm lên hòn đá có những nốt phồng to như hạt lạc. Anh rứt nhấm thử, thấy có nước và vị ngọt. Thì ra những cây dương xỉ trên núi đá vôi khác hẳn những cây dương xỉ sống ở khu vực núi đất và trong khe suối ẩm ướt. Những nốt sần treo lủng lẳng trên rễ của cây dương xỉ trên núi đá vôi quanh năm khô cằn chính là cái túi dự chữ nước của nó. Thiên nhiên khắc nghiệt đã bắt buộc sinh vật có cách thích nghi để tồn tại.
Người lính ấy đã gào lên:
- Nước... có nước rồi chúng bay ơi... ha... ha...!
- Thôi chết! Thằng này đau quá mê sảng rồi!
Mọi người xúm lại cứ ngỡ anh ta mệt và khát quá nên mê sảng. Anh đưa ra một nắm những hạt sùi của cây dương xỉ bảo mọi người nếm thử. Và, thế là thật tình cờ, chúng tôi phát hiện ra một nguồn nước tuy không thể nấu cơm, rửa vết thương cho thương binh nhưng lại có thể giải khát. Chúng tôi bứt những cái nốt sần của cây dương sỉ nhai cho đỡ khát. Quả là một nguồn nước vô tận của người lính trong vòng vây quân thù. Một nguồn nước nhỏ nhoi nhưng thật là quý giá.
Những ngày ở Lũng Mật, chúng tôi chủ yếu ăn gạo sấy. Đó là loại gạo đã được rang chín đóng trong túi ni-lông. Lẽ ra có nước sôi đổ vào thì ăn sẽ ngon hơn. Nhưng chúng tôi không nấu được nước để lỡ khói bốc lên lộ vị trí giấu quân. Vì thế, gạo sấy chủ yếu pha bằng nước lã. Ăn thứ gạo sấy này giống hệt như cơm nguội ném vào nước lạnh cho trương lên, hoặc tựa như những hạt cơm còn sót lại trong chậu sau khi rửa bát. Nó nhạt nhẽo. Nhưng trong vòng vây của kẻ thù có được một chút gạo sấy là may lắm rồi.
Một sáng, tôi đang ngủ sau một đêm đi bám địch thì chợt tỉnh vì nghe tiếng quát, tiếng khóc ở ngay hốc đá bên cạnh. Tôi bật dậy xách súng trèo qua gộp đá sang xem có chuyện gì.
Anh Thành, trung đội trưởng trung đội vận tải đang quát hai cô gái:
- Các cô là ai! Tại sao các cô lại chui vào đây?
- Chúng em là thanh niên xung phong... lạnh quá nên...
Hai cô gái ôm vai co ro ngồi gục đầu khóc nức nở.
Tôi nhận ra đó là hai nữ thanh niên xung phong mà bộ phận bám địch tối hôm qua tìm thấy dẫn về cùng một số bà con các bản bị bọn địch truy đuổi chạy lên núi tìm theo bộ đội. Tôi liền nói để trung đội trưởng Thành hiểu. Nét mặt trung đội trưởng Thành dịu đi. Các chiến sĩ xúm lại hỏi chuyện. Thì ra, khi lên tới Lũng Mật đã gần sáng, hai cô bé này mệt và buồn ngủ quá liền chui bừa vào một hốc đá chỗ có các chiến sĩ đang nằm định ngồi nhờ cho đỡ rét. Thấy có mấy người đang trùm chăn nằm ngủ hai cô bé liền ôm nhau nằm cạnh. Họ kéo cái chăn họ đang trùm đắp ké cho đỡ lạnh. Sáng ra, hai cô bé mới biết là suốt đêm qua họ đã nằm cùng các liệt sĩ khi trung đội trưởng Thành và mấy chiến sĩ vận tải đến để chuẩn bị việc mai táng. Hai cô bé thanh niên xung phong sợ tái nhợt cả mặt mũi. Bây giờ các cô mới hiểu thảo nào cả đêm nằm sát các anh mà vẫn cứ lạnh và lạ nhất suốt đêm chả thấy ai trở mình cục cựa lần nào. Cả hai lại cứ nghĩ là các anh mệt quá nên ngủ chìm đi.
Rõ mọi chuyện, tôi tìm cách an ủi:
- Đừng sợ! Đó đều là đồng đội của chúng ta cả thôi. Các anh ấy vì Tổ quốc mà hy sinh chẳng có gì phải sợ cả.
- Đúng vậy! Hôm qua, tôi còn cõng các anh ấy cả buổi leo lên núi. Chắc là nhờ các anh ấy phù hộ cho nên bị địch bắn mấy lần vẫn thoát đấy!
Một chiến sĩ tiếp lời. Mỗi người một câu động viên an ủi. Hai cô bé thanh niên xung phong đã hơi hoàn hồn. Nhìn hai cô bé nét mặt bơ phờ, đầu tóc rối tung, quần áo mong manh tả tơi tôi thấy thương quá. Có lẽ hai cô bé này chỉ trạc tuổi em Mai. Tôi liền đề nghị:
- Ai còn mang theo được hai bộ quần áo thì san sẻ cho hai cô này một chiếc.
- Có... có...
Mấy chiến sĩ vội lục ba lô. Người cho cái quần, người thì cho cái áo, cái khăn mặt. Hai cô bé mỗi người có thêm một bộ quần áo nữa. Họ mặc vào bớt rét nên đỡ run rẩy hơn. Nét mặt hai cô bé có vẻ tươi tỉnh lại một đôi chút. Tôi đưa cho hai cô một cái vỏ chăn và bảo:
- Cầm lấy, tối ngủ hai người đắp chung cho đỡ rét.
- Nhưng anh cho chúng em rồi thì anh lấy cái gì để đắp...
- Yên trí! Đã có cái này rồi...
Tôi nói và rút từ trong ba lô ra một cuộn vải còn mới tinh lòng thòng những cái đai may sẵn rồi cười bảo:
- Đây là một tấm vải liệm đã may sẵn để liệm người hy sinh, bọn anh được cấp phát để dùng trong chiến đấu. Khi chưa phải dùng đến thì anh dùng đắp tạm cho đỡ rét. Mong rằng mình sẽ được sử dụng nó để đắp cho đến hết chiến tranh mà không phải dùng đến nữa.
- Ôi trời...
Hai cô bé tròn mắt nhìn tấm vải liệm tôi đang cầm trên tay. Nó giống hệt những tấm vải liệm mà các chiến sĩ trung đội vận tải đem đến để chuẩn bị gói ghém các liệt sĩ đang để trong hốc núi. Tuy vậy, các cô cũng có vẻ đỡ sợ hơn sau một đêm đã nằm cùng những người đã chết. Hai cô bé giúp các chiến sĩ trung đội vận tải khâm liệm các liệt sĩ để đưa đi mai táng.
Qua trò chuyện chúng tôi biết tên hai cô bé thanh niên xung phong. Một người tên là Ngọc, một cô tên là Thuỳ. Cả hai đều là sinh viên cao đẳng ở thành phố Thái Nguyên. Hai cô bé cùng rất nhiều bạn bè hăng hái xung phong lên phục vụ chiến đấu ở biên giới. Đội thanh niên xung phong của các cô đóng ở mãi phía sau. Mấy ngày đầu cuộc chiến các cô đã vác đạn lên trận địa cho bộ đội, khênh cáng thương binh về tuyến sau. Nhưng rồi tuyến sau lại bị quân địch tấn công trước. Chúng tràn vào doanh trại của đội thanh niên xung phong bắt hàng chục cô gái lột hết quần áo, cưỡng hiếp rồi dùng lưỡi lê đâm chết rồi quăng xác xuống giếng. Một số bị tra tấn rất rã man và bị đưa đi đâu không rõ... May hôm địch xông vào doanh trại Ngọc và Thuỳ đang đi cáng thương binh về chậm nên thoát chết. Hai cô bé nấp ở trên đồi nhìn bọn giặc làm nhục và giết hại các bạn mình cắn môi đến bật máu mà không dám khóc. Chờ đến tối, hai cô bé này chui ra khỏi chỗ ẩn nấp dắt nhau chạy về hướng dãy núi đá tìm bộ đội của ta. Hai người gặp được một số người dân và được bộ phận đi trinh sát nắm tình hình địch của tiểu đoàn tôi đưa lên Lũng Mật.
Hai cô bé vừa kể lại mọi chuyện vừa khóc. Họ khóc khi nói về đồng đội và cho cả những người lính chiến vừa được vùi dưới lớp đất mỏng không có một nén nhang, không một bông hoa trên mộ chí.
Sau khi mai táng các liệt sĩ về, Ngọc và Thuỳ được gọi lên bổ sung vào bộ phận nuôi quân của tiểu đoàn. Hai cô bé này đã đi cùng với đơn vị chúng tôi cho đến hết chiến tranh. Khi nhìn hai cô bé, thắt lưng gài lựu đạn, vai đeo cái ba lô tự tạo làm bằng cái quần dài hai ống buộc túm lại giống hệt các chiến sĩ khi rút lui khỏi trận địa phòng ngự, tôi cười bảo:
- Hai em đã là chiến sĩ thực sự rồi đấy nhé!
- Chúng em sẽ cố gắng anh ạ!
Tôi dặn:
- Trong tình huống nào cũng phải cố mà bám bằng được theo bộ đội nhé!
Cả hai gật đầu. Nhớ đến Mai, tôi lại cầu mong cho hai cô bé sẽ bình an để được trở về với mẹ, tiếp tục học hành. Trong đêm vượt vây Ngọc và Thuỳ đã cứu được một em bé. Đó là hôm đơn vị rút sang Nguyên Bình, Ngọc và Thuỳ đi phía sau đội hình có nhiều bà con đồng bào các bản. Đoàn người gồng gánh, bế bồng con cái bám theo bộ đội vượt đường quốc lộ. Giữa lúc cả đoàn người đang âm thầm len lỏi đi dưới chân điểm chốt của địch thì xảy ra sự cố. Một đứa trẻ chưa đầy tháng mà người mẹ trẻ đang ôm trên tay bỗng giật mình bật lên tiếng khóc. Tiếng khóc của một sinh linh chưa hiểu chiến tranh và sự hiểm nguy là gì. Người mẹ trẻ ấy sợ bọn địch phát hiện ra đội hình đang vượt vây sẽ dẫn đến cái chết của hàng trăm người nên vội vàng lấy khăn bịt miệng con không cho khóc nữa. Lúc sang đến bên kia cánh đồng thì đứa bé ngừng thở. Tưởng đứa con chưa đã chết, người mẹ ấy vội đặt con vào hốc đá rồi dắt đứa lớn chạy theo đoàn người. Đứa trẻ số không chết. Khi được đặt xuống đất lạnh, nó dần tỉnh lại. Ngọc và Thuỳ đi gần cuối đội hình chợt nghe tiếng trẻ con khóc bèn quay lại tìm. Ngọc liền cởi áo bọc đứa trẻ ôm chạy theo bộ đội. Nhận lại đứa con từ tay hai cô nữ thanh niên xung phong, người mẹ ấy cứ khóc mãi.

(còn nữa)

Thứ Ba, 23 tháng 8, 2011

Truyện dài TRONG VÒNG LỬA (phần 6)

    
Trong vòng lửa
Truyện của Trọng Bảo

        Tôi và Mai lần theo lối mòn ngược lên đỉnh núi. Ánh trăng tuy phải xuyên qua làn sương mù dày đặc nhưng vẫn soi rất rõ con đường ngược dốc nên chúng tôi đi không đến nỗi khó khăn lắm. Chỉ có điều là Mai sức yếu, lại chưa quen leo dốc núi cao gần như dựng đứng nên em đi rất chậm. Cứ đi được vài bước tôi lại phải dừng lại đợi. Cái ba lô của Mai chỉ có hơn chục bắp ngô lấy được ở bản và vài thứ nhẹ tênh nhưng em kêu mỏi vai. Tôi phải chuyển dần các thứ của em sang ba lô của tôi. Lên đến đỉnh dốc thì Mai chỉ còn đeo độc một khẩu súng trên vai.
           Về đến gần vị trí trú quân thì Mai giữ tôi lại và bảo:
           - Sắp sáng rồi! Chúng mình vào chỗ nào ngồi với nhau một lát. Ngày mai bộ phận của chúng em sẽ rút lui sang Nguyên Bình trước rồi. Từ hôm gặp nhau đến giờ, anh em mình chưa ngồi nói chuyện với nhau lần nào!
          Tôi và Mai tạt vào một hẻm núi đá gần bên lối đi. Chúng tôi cùng ngồi dựa lưng vào một hòn đá lớn. Đang thì thầm kể đủ thứ chuyện thì Mai chợt kêu lên:
          - Anh ơi! Em lạnh quá!
          - Đã bảo là nước lạnh lắm lại không nghe! Khéo mà bị nhiễm lạnh, cảm ốm ra trong lúc này thì nguy. 
          Tôi vừa càu nhàu vừa quờ chiếc ba lô của mình tìm cái vỏ chăn choàng lên vai Mai. Mai quấn chặt cái vỏ chăn ngồi thu lu trông nhỏ bé và yếu ớt quá. Hình như Mai chưa hết lạnh, em nói giọng run run:
          - Vẫn lạnh lắm! Anh... anh... ôm em đi cho ấm!
          Thấy tôi lúng túng chần chừ, Mai giục:
 - Ôm em thật chặt vào... đi anh...
          Tôi lúng túng ngồi sát lại gần Mai. Mai mở cái vỏ chăn đang quấn quanh người cho tôi cùng đắp. Rụt rè một lúc tôi mới dám vòng tay trái luồn qua lưng Mai ôm lấy bờ vai em. Tôi hơi bất ngờ vì Mai không lạnh như em đã nói. Người Mai nóng rực.
           Mai ngả đầu vào vai tôi. Em nói, giọng buồn buồn:
           - Chiến tranh ác liệt quá! Bao nhiêu người ngã xuống rồi! Hôm trước, khi địch tập kích vào hang giữa lúc em đang đi lấy nước nên còn sống. Bọn chúng đánh sập cửa hang. Cứ nghĩ đến chuyện chị Nhung và mọi người vẫn còn sống mà bị đá bít mất cửa hang không ra được, chết đói, chết khát trong đó là em lại muốn khóc.
           Vai Mai rung rung. Tôi biết em đang cố nén để khỏi bật ra tiếng khóc. Tôi cũng không biết nói câu gì để an ủi Mai bây giờ. Mai lại thủ thỉ:
           - Em vẫn nhớ hôm trước anh và anh Lâm lên trung đoàn công tác đến chỗ em chơi. Em hứa là bao giờ chúng mình ra quân em sẽ đưa các anh đi trẩy hội Lim...
           - Nhất định rồi! Mùa Xuân sang năm chúng mình cùng về quê em đi hội Lim nhé?
           - Nhưng mà... chiến tranh chả biết thế nào!
           Nghe giọng nói Mai của sao mà buồn thế. Hai chúng tôi cùng im lặng hồi lâu. Mai vẫn ngoẹo đầu dựa vào vai tôi. Hơi thở của em nhè nhẹ phả vào cổ tôi âm ấm. Tôi nghĩ chắc Mai mệt quá đã ngủ thiếp đi. Chợt có một tiếng nổ khá lớn dưới thị trấn vọng lên. Mai hơi giật mình. Bàn tay em lần tìm bàn tay phải của tôi nắm chặt. Tôi thấy thương Mai quá. Con gái trong chiến tranh sao mà lẻ loi và khốn khổ đến thế. Mai vẫn giữ chặt tay tôi trong tay mình như sợ tôi đột nhiên biến mất. Bàn tay nhỏ nhắn của em như có lửa. Và thật bất ngờ, Mai kéo bàn tay tôi lên áp chặt vào khuôn ngực bên trái của mình. Tôi hốt hoảng khi nhận ra khuy ngực áo của Mai đã mở từ lúc nào. Bàn tay tôi chạm vào bầu ngực mịn màng, tròn trịa, ấm nóng của Mai. Tôi run cầm cập, định rụt tay lại nhưng Mai kéo giữ chắc bàn tay tôi áp vào ngực mình. Mai cứ giữ mãi bàn tay tôi như thế. Khi định thần, bình tĩnh lại, tôi cảm nhận được trong lòng bàn tay của mình con tim nhỏ bé của Mai đang đập nhoi nhói.
           Hai chúng tôi ngủ thiếp đi vì quá mệt mỏi sau bao ngày gian khổ, ác liệt.
           Khi tôi sực tỉnh thì trời đã sáng bạch. Mai vẫn ngủ rất ngon. Bàn tay em giữ tay tôi hơi lỏng ra. Tôi khẽ lựa rút bàn tay ra khỏi ngực Mai. Tôi run lên khi lần đầu nhìn thấy bầu vú tròn vo, trắng hồng của người trinh nữ. Trên đó còn in hằn dấu bàn tay tôi đã giữ chặt suốt đêm qua.
           Một cơn gió bắc ào vào thung lũng. Cái lạnh thốc vào hẻm núi làm Mai bừng tỉnh. Em ngước nhìn vào mắt tôi rồi nhìn xuống ngực mình. Đoạn em khẽ khàng gài lại khuy áo.
           Đến lúc chúng tôi phải về đơn vị. Mai ôm chặt lấy tôi như không muốn rời.
 Tối hôm ấy, cơ quan trung đoàn bộ rút đi. Hai ngày sau tôi nhận được một tin đau xót là Mai và một số chiến sĩ đã hy sinh trong đêm vượt vây tại huyện Thông Nông. Bọn địch phát hiện truy kích, Mai và mấy người nữa đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng chặn địch cho đơn vị rút lui.
 Tôi bần thần, ngơ ngác mất mấy ngày liền. Tôi không tin là sẽ không bao giờ còn được gặp lại Mai nữa. Nhớ đến Mai từ lần gặp đầu tiên em đứng bên mẹ hôm nhập ngũ và nghĩ về cái chết anh dũng của em, tôi đã viết tặng Mai bài thơ "Tiếng gọi".
Tiếng gọi
Trước lúc hy sinh em cố gọi: "Mẹ ơi!"
Tiếng gọi chìm trong tiếng súng.
Tiếng gọi tắt nửa trên môi.
Người em gái tuổi chớm đôi mươi
Chưa một lần hò hẹn
Chưa biết đến nụ hôn
Em mang cả trinh nguyên về với đất.
Trái tim em đạn thù găm nát
Nỗi đau từ đó vỡ ra,
Tình yêu từ đó vỡ oà
Em gửi lại cho những người ở lại.
Chúng tôi đứng sát bên nhau
Nòng súng vươn cao lặng lẽ cúi đầu
Phút cuối cùng tiễn đưa người em gái.
Đặt một cành lá xanh
Trên nấm mộ gió mưa tê tái
Tôi chợt nghe như em vẫn còn gọi mãi:
"Mẹ... mẹ ơi!".
Cuối tháng bảy năm ấy, tôi và Lâm có quyết định về tập trung tại trường văn hoá của quân khu để ôn thi đại học. Sau trận đánh nhử địch vào bãi mìn ở mỏm Đầu Bò, Lâm chạy thoát được về phía nam điểm cao 505. Gặp một đại đội của tiểu đoàn 2, Lâm đã theo đơn vị này chiến đấu ở mạn Cao Bình, Hoà An. Sau chiến tranh, Lâm tìm trở về đơn vị cũ.
Trước khi rời Cao Bằng về xuôi, tôi và Lâm đến thăm nơi Mai đang yên nghỉ. Ngôi mộ nhỏ bé của Mai trên một sườn núi lô nhô những mô đá một màu xám lạnh. Quanh chỗ em nằm có những bông hoa lau phơ phất trong gió chiều.
Quỳ trước mộ của Mai, tôi đọc bài thơ thứ hai này cho em nghe.
Thôi em ở lại
Vậy thôi em ở lại,
Bọn anh ngày mai về xuôi.
Hôm lên chúng mình có ba người
Một mình em con gái
Quê em ở bến sông Cầu.
Em nói ngày ra quân năm sau
Đưa bọn anh về làng Lim đi hội
Nghe quan họ hát thâu đêm...
Thế mà bây giờ chỉ một mình em
Ở lại đây với núi rừng biên giới.
Trận đánh ấy vô cùng dữ dội
Giữa vòng vây quân giặc trùng trùng
Quả lựu đạn cuối cùng
Trên tay em chớp lửa
Quân thù kinh hoàng, tơi tả,
Em hoá thân vào trời đất bao la,
Nên ngày về xuôi chẳng còn đủ ba
Khuyết mất người em gái nhỏ.
Hai đứa anh ngồi bên nấm mộ
Bùi ngùi dặn em trước lúc chia tay:
"Thôi em ở lại đây
Với chập trùng núi đá
Với bạt ngàn hoa lau,
Để mùa Xuân trên bến sông Cầu
Thiếu một người đội nón quai thao đi hội...".
Đọc xong, tôi liền châm lửa đốt tờ giấy chép bài thơ thay một nén nhang tưởng nhớ người liệt nữ. Bài thơ cháy bỏng trên tay tôi.
Đúng một năm sau, tôi về học ở Trường sĩ quan Chính trị tại Bắc Ninh. Lần đầu tiên đi Hội Lim, giữa dòng người trẩy hội đông nghẹt, tôi lại nhớ đến Mai. Tôi cứ nghĩ là em đang đưa tôi đi xem hội. Em vẫn ở đâu đó quanh đây, giấu khuôn mặt xinh đẹp sau vành nón nhỏ và sẽ bất ngờ xuất hiện ngay bên cạnh tôi với ánh mắt sáng long lanh, nụ cười tinh nghịch trên môi...
Và, tôi đã viết cho em bài thơ thứ ba này.
Hội Lim tôi lại đi tìm
Hội Lim tôi lại đi tìm
Mong sao gặp ánh mắt em hôm nào,
Trốn sau vành nón quai thao 
Thoảng nghe tiếng gọi ngọt ngào: "Người ơi..."
Hội đông, người chạm vai người
Không em tôi vẫn lẻ loi một mình
Cô đơn khóm trúc đầu đình
Buồn trông liền chị, liền anh dập dìu
Đêm cho câu hát liêu xiêu       
Tay nâng vạt áo bao nhiêu hẹn hò.
Riêng tôi mong sự bất ngờ
Biết đâu hội tự bao giờ đã tan...?.

 (còn nữa)

Truyện dài TRONG VÒNG LỬA (phần 5)


Trong vòng lửa
Truyện của Trọng Bảo

       Các đơn vị của trung đoàn cũng bắt đầu rút lui lên dãy núi mà tiểu đoàn 3 chúng tôi đang đứng chân. Cơ quan hậu cứ của trung đoàn bộ bị bọn địch đánh tập hậu. Chính uỷ trung đoàn, thiếu tá Nguyễn Đệ đã chỉ huy bộ đội cố thủ trong hang suốt ba ngày. Khi bọn địch chiếm được cửa hang, chúng đã dùng cả tấn thuốc nổ đánh sập cửa hang, chôn sống hơn chục cán bộ, chiến sĩ ta trong đó. Nghe tin này chúng tôi ai cũng rất đau xót, căm thù quân giặc.
 Được giao nhiệm vụ dẫn tiểu đội đi đón đội hình của trung đoàn bộ rút lui lên Lũng Mật, tôi thấp thỏm cả buổi chiều. Không biết ai còn sống, ai đã hy sinh. Tôi quen thân rất nhiều anh em trên cơ quan trung đoàn bộ. Trời chưa tối, ăn vội nắm cơm, anh Thọ, trợ lý tham mưu tiểu đoàn đã gọi bộ phận đi đón cơ quan trung đoàn bộ lên đường. Anh dẫn chúng tôi tụt xuống núi. Theo hiệp đồng, chúng tôi sẽ chờ ở khu vực Mỏ Nước, chân núi đá. Sương mù bắt đầu buông xuống, không còn nhìn rõ khu núi đất và điểm cao 505 mà bọn địch đang phòng ngự nữa. Bộ phận cơ quan trung đoàn bộ sẽ lợi dụng đêm tối và sương mù dày đặc cắt qua dãy núi đất phía nam cao điểm 505, vượt qua con đường xuôi Mỏ Sắt và cánh đồng hẹp sang dãy núi đá.
 Chúng tôi ém quân tại khu vực Mỏ Nước chân núi đá phía bên này cánh đồng. Bộ đội ẩn nấp sau các mô đá nhấp nhô không để bọn địch đang đi lại trên con đường đất bên kia cánh đồng phát hiện, và cũng tránh đạn pháo địch thỉnh thoảng lại bắn hú hoạ từ cao điểm 505 sang sườn núi đá. Nhìn những ánh đèn và tiếng gầm rú của các phương tiện xe máy của địch chúng tôi lo lắm. Không biết các cán bộ, chiến sĩ cơ quan trung đoàn bộ có vượt qua đường an toàn không. Càng về khuya, sương càng lạnh. Con đường bên kia cánh đồng bọn địch đi lại thưa hơn. Chúng tôi căng mắt quan sát và dỏng tai lên nghe từng động tĩnh từ phía bên kia con đường đất. Không nói ra nhưng ai cũng thấy bồn chồn, lo lắng. Có lẽ đã sang ngày hôm sau. Có tiếng gà xao xác gáy. Đang sốt ruột căng mắt ra quan sát thì trợ lý Thọ lần đến chỗ tôi thì thào thông báo:
 - Có tín hiệu bắt liên lạc rồi! Ông chuẩn bị cho anh em đón và giúp khiêng cáng thương binh, mang vác giúp trang bị nhé!
 - Vâng! Anh cứ yên tâm, tôi bố trí đâu vào đó rồi.
 Những bóng người lờ mờ hiện ra trong sương. Chúng tôi rời các mô đá ào ra. Không có thương binh nặng phải khiêng cáng, chỉ có một số thương binh nhẹ còn đi được. Các chiến sĩ đi đón dìu thương binh, dẫn các cán bộ trung đoàn lẩn vào ngay khe núi, khuất sau những gộp đá to.
 Chợt nhìn thấy một bóng người nhỏ bé có vẻ lật bật đi cuối đội hình, tôi khẽ hỏi:
 - Đồng chí nào chậm chạp thế! Nhanh lên. Nó bắn pháo sang bây giờ!
 - Em... em... là... Ôi! Ai như anh Hà đấy phải không ạ?
 Tôi cũng đã nhận ra người quen. Tôi liền chạy đến lập bập hỏi:
 - Mai... Mai hả!
 - Vâng, là em đây anh ơi!
 Một ánh lửa đề-pa của pháo địch sáng loé lên. Tôi vội kéo Mai vào phía sau gộp đá. Tôi đưa tay gỡ cái ba lô Mai đang đeo để mang giúp em. Tay tôi chạm và bờ vai tròn của cô gái. Mai để tôi mang giúp cái ba lô của mình. Tôi không giấu nổi niềm vui:
 - Gặp em rồi! Mừng quá...
 - Em cũng mừng... nhưng... hu hu... chị... chị... Nhung hy sinh rồi anh ơi...
        Tôi lặng người đi khi nghe tin Nhung hy sinh. Tôi và Nhung cùng quê, cùng nhập ngũ, lại cùng ở đơn vị với nhau kể từ ngày vào bộ đội đến giờ. Nhung là văn thư của trung đoàn. Thỉnh thoảng lên trung đoàn bộ công tác, tôi vẫn ghé thăm Nhung. Nhất là từ khi Mai về cùng bộ phận với Nhung. Mai vẫn tự nhận là em gái tôi. Mai quê ở Yên Phong, Hà Bắc. Tôi quen Mai từ ngày em nhập ngũ. Đó là đầu năm 1978, khi ấy tôi còn ở cơ quan trung đoàn bộ. Tôi được đi cùng các cán bộ đại đội thông tin về Hà Bắc tuyển quân. Đơn vị tôi nhận tân binh ở huyện Yên Phong. Trong số các chiến sĩ nam nữ sẽ biên chế về cơ quan trung đoàn bộ tôi chú ý đến một cô bé nhỏ có khuôn mặt trái xoan và đôi mắt rất sáng. Nhận quân trang mới, mặc dù cô bé này đã phải xắn lên một gấu, ống quần vẫn dài quét đất. Tôi trêu:
 - Hay là cho em về nhà để mẹ cắt bớt nửa ống quần đi cho vừa.
 - Đừng coi thường nhé! Vào bộ đội vài hôm là em sẽ lớn thôi!
 Cô bé láu lỉnh cự lại. Lúc giục mọi người lên xe để hành quân về đơn vị, tôi thấy cô bé này đang đứng với một chị phụ nữ còn rất trẻ. Nhìn hai người rất giống nhau, tôi đoán là hai chị em. Tôi bảo:
 - Đồng chí nữ tân binh thôi khóc nhè, chùi mũi rồi chào chị đi để còn lên đường về đơn vị nào!
 Cô bé trợn mắt:
 - Đây là mẹ em chứ!
 Tôi lúng túng vì sự nhầm lẫn. Mẹ cô gái cười dặn:
 - Nhờ chú quan tâm giúp đỡ em Mai với nhé! Tính nó còn trẻ con lắm...
 Mai nũng nịu giật giật tay mẹ. Hai mẹ con cùng lau mắt khi chia tay nhau.
 Từ đó tôi và Mai thân nhau. Mỗi lần gặp nhau Mai thường hay "đe" tôi: "Phải luôn nhớ giúp đỡ em Mai! Anh đã hứa với mẹ rồi đấy nhé!". Hết thời gian huấn luyện chiến sĩ mới, Mai được điều động về ban hành chính trung đoàn, cùng bộ phận văn thư bảo mật của Nhung.
 Trung đoàn hành quân lên tuyến trước, các tiểu đoàn đóng quân cách xa trung đoàn bộ. Mỗi lần có việc lên trung đoàn tôi đều tạt qua thăm Mai. Gặp nhau, Mai khoe đủ chuyện. Nhất là chuyện quê hương. Mai vẫn bảo: "Khi nào ra quân anh về thăm quê em vào dịp đầu mùa Xuân, em sẽ đưa anh đi hội Lim!".
 Từ khi cơ quan trung đoàn bộ rút lui lên Lũng Mật, tình hình lương thực, nước uống càng thêm khó khăn. Chúng tôi phải vừa củng cố trận địa phòng ngự vừa tổ chức đột nhập xuống chỗ bọn địch đã chiếm để tìm kiếm lương thực, lấy nước uống.
  Một đêm, đơn vị tổ chức một bộ phận bí mật xuống bản Nà Liền tìm lương thực. Mai và một số anh chị em cơ quan trung đoàn cũng cùng đi. Trăng đêm mờ đục bởi mây mù dày đặc. Chúng tôi tổ chức đội hình thành từng tốp nhỏ đi cách nhau một đoạn đề phòng bị địch phục kích. Bản Nà Liền hoang tàn sau những trận pháo kích và đốt phá của bọn địch. Trong những căn nhà sập đổ, tìm được thứ gì chúng tôi lấy thứ nấy, gạo, ngô, đậu tương, lúa của đồng bào bó để trên gác bếp. Lúc quay trở về, theo sự phân công của người chỉ huy chung, tôi lùi lại phía sau chờ mọi người lên hết dốc mới rút theo. Tôi ôm súng nép vào hòn đá to giữa suối cảnh giới.
 Mọi người vượt qua con suối nhỏ, bắt đầu leo lên dốc. Chờ một lát, ước chừng tất cả đã vượt qua khỏi đoạn dốc trống trải, tôi mới khoác cái ba lô đựng ngô lên vai rời khỏi vị trí cảnh giới. Vừa định băng qua suối thì có tiếng gọi nho nhỏ ngay sau mô đá, sát chỗ tôi đang đứng:
 - Anh Hà ơi!
 Nhận ra tiếng người gọi, tôi quay lại:
 - Mai hả! Sao tụt lại xa đội hình thế! Mau vượt lên dốc đi. Ba lô nặng quá đưa anh mang bớt cho!
 - Không nặng đâu! Nhưng anh chờ em một tý nhé!
 - Có việc gì vậy! Rút nhanh kẻo nó bắn pháo sang nguy hiểm lắm!
 Tôi vừa nói vừa nhìn về phía thị trấn, nơi những căn nhà đang cháy rừng rực, thỉnh thoảng ánh lửa đầu nòng pháo của địch lại lóe lên.
  Mai thì thào:
        - Anh... cảnh giới cho em... tắm một tý nhé! Đã mấy ngày rồi... trên núi làm gì có nước?
        Đúng là trên núi đá vôi cằn cỗi nước uống còn chả đủ làm gì có nước mà tắm. Có vị trí tổ chức việc phòng ngự rất tốt, dễ đánh chặn đánh bọn địch tấn công lên núi nhưng mạch nước cạn mất đơn vị đành phải rút đi chỗ khác.
 Nghe Mai nói vậy, tôi gàn:
 - Nước suối lạnh lắm. Đi thôi em!
         - Mặc kệ!
        Mai nói và trút hết quần áo, để trên mô đá rồi lội xuống suối ngay sát chỗ tôi đang đứng. Bất ngờ mặt trăng ló ra chỗ mây thưa. Cơ thể ngọc ngà của Mai lồ lộ dưới ánh trăng. Mai đưa hai bàn tay bưng lấy ngực rồi từ từ dìm người xuống dòng nước lạnh. Ánh trăng lấp loá trên đôi vai trần của em.
        Một lát sau Mai bước lên đứng cạnh tôi lặng lẽ mặc quần áo. Xong xuôi, Mai khẽ hích nhẹ vào vai tôi:
        - Chúng mình đi thôi!
        Tôi vẫn chưa hết bàng hoàng trước vẻ đẹp thanh khiết, tròn đầy của cô gái giữa một đêm chiến tranh nơi góc rừng biên giới. Tiếng súng bên kia cánh đồng bỗng rộ lên. Tôi kéo Mai hối hả vượt qua khoảng dốc trống trải. Chúng tôi lẩn nhanh vào sau những mô đá nhấp nhô như hình người đang đứng im phăng phắc trên sườn núi ngực ưỡn ra chắn luồng gió Bắc.

            (còn nữa)