Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012

Truyện ngắn NGÕ NHỎ

       Nhân kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh liệt sĩ 27-7, Radio Megafun chuyển thể truyền thanh Truyện ngắn NGÕ NHỎ của Trọng Bảo và gửi đường link đến cho tác giả.
        Mời nghe đọc truyện trực tiếp cả 3 phần theo các đường link dưới đây:
        http://megafun.vn/giai-tri/radio/truyen-ngan/201207/Ngo-nho-Phan-1-218715/
        http://megafun.vn/giai-tri/radio/truyen-ngan/201207/Ngo-nho-Phan-2-218716/
        http://megafun.vn/giai-tri/radio/truyen-ngan/201207/Ngo-nho-Phan-3-218720/

        NGÕ NHỎ
        Truyện ngắn của Trọng Bảo
               
         Tung nắm thóc cho đàn gà xong, bà Cần chống gậy đi ra đầu ngõ. Cái ngõ nhỏ sâu hun hút. Hai bức tường đá ong cao quá đầu người. Mưa gió, thời gian làm những viên đá ong lát đường, xây tường mòn lõm đi. Cái ngõ nhỏ này thuở bé bà vẫn nhảy tưng tưng mỗi khi đi về. Thế mà bây giờ, bà phải lần từng bước, tiếng gậy khua lọc cọc, lọc cọc. Qua cổng nhà bà Miên, bà Cần nhắc cây gậy lên tránh tiếng. Bàn chân bà bấm xuống mặt đường, hai tay hơi giang ra, bước đi như người làm xiếc trên giây để giữ thăng bằng.
           Bà Cần không muốn người bạn già biết mình đang đi ra đầu ngõ. Bà Miên đang ốm. Hôm qua bà Cần đã nấu cho người bạn già một nồi lá xông nên bà ấy đã đỡ. Hôm nay, bà ra đầu ngõ mua nửa cân đường. Người già khi ốm thường nhạt miệng, có một thìa đường cho vào bát cháo dễ ăn hơn là với muối.
           Thấy bà hỏi mua đường, anh phó chủ tịch xã đang ngồi uống bia hơi trong quán ngạc nhiên:
           - Nhà hết đường rồi hay sao mà cụ phải đi mua thế này?
           - Còn khối ra đấy ăn làm sao mà hết được!
           - Thế sao...?
           Bà Cần vừa gỡ cái kim băng mở túi lấy tiền vừa trả lời anh phó chủ tịch:
           - Bà Miên bà ấy ốm! Mua nửa cân đường cho bà ấy ăn cháo. Đường nhà còn cả mấy chum nhưng có mang sang lại mang về thôi, bà ấy không chịu nhận.
           Anh phó chủ tịch xã vẫn không hiểu. Bà Cần cũng không nói thêm nữa. Bà mua thêm hai cái bánh giò rồi lọc cọc chống gậy quay vào trong ngõ.
           Bà Cần rất hiểu tính tình của người bạn già. Bởi họ đã sinh ra và lớn lên cùng nhau ở cái ngõ nhỏ này. Thuở ấy, hai người như hình với bóng. Đi đâu, làm gì cũng có nhau, chăn trâu, nhảy dây, bắt cào cào, châu chấu, củ khoai, củ sắn chia đôi, quả khế, quả me mỗi người một nửa, đi cấy, đi cắt cỏ, lấy củi cứ ríu ran ngõ nhỏ. Mặt mũi lấm lem bùn đất, áo vá, nón mê thế mà thấp thoáng cả hai đã thành thiếu nữ.
            Có anh giáo học trên tỉnh về quê si tình đã viết cả một bài thơ dài về hai người mà bà còn nhớ được một câu: “Ai về làng Vũ, thôn Đoài/ Trông trong ngõ nhỏ có hai nàng Kiều...”. Hai người ngày ấy đẹp nhất làng mà cũng chăm chỉ, nết na nhất làng. Hai dáng kiều đã làm cho anh giáo si tình ngày ngày dạy chữ, đêm đêm làm thơ, ngơ ngơ ngẩn ngẩn đi trên con đường làng đầy rơm rạ.
            Nhưng, cuộc đời người con gái ở quê ngắn lắm. Bà Miên lấy chồng khi chưa đầy mười tám. Anh chồng trông lù đù thế mà khi cách mạng tháng Tám nổ ra dám ôm mã tấu xông vào nhà công sứ trên tỉnh treo cờ đỏ sao vàng, rồi tham gia du kích suốt chín năm. Còn bà Cần, ai ngờ lại bén duyên anh giáo si tình. Đám cưới của bà vui nhất làng. Anh giáo tứ cố vô thân. Ông chủ tịch uỷ ban hành chính kháng chiến đứng ra đại diện nhà trai. Nước nhà độc lập, làng xóm suốt ngày mít tinh, hội họp, có thêm một đám cưới càng thêm vui, tiếng cười nói, hát hò rộn trong ngõ nhỏ.
            Song, ngày vui thường chẳng tày gang. Cuộc kháng Pháp nổ ra. Anh giáo lên rừng theo bộ đội để lại cho bà Cần đứa con chưa đầy hai tuổi. Bà Miên cũng đã hai mặt con. Thằng Thông con cả sinh thiếu tháng quặt quẹo mãi. Thằng Thái là thứ hai cũng mới hơn một tuổi. Hai bà vẫn thường đổi nhau. Người này đi chợ, người kia ở nhà cho cả hai thằng bé bú luôn. Bà Cần vẫn nhớ cái lần thằng Tây từ vùng Tề càn lên. Bà Miên đi chợ vắng, một mình bà đưa cả ba thằng bé chạy vào trong núi. Một đôi quang gánh hai thằng bé hai bên thúng, thằng lớn thì dắt chạy dưới làm đạn của giặc. Khi bà Miên bỏ chợ chạy về thì bọn giặc đã rút. Bà dáo dác đổ đi tìm, khi thấy con, tháy bạn mới hết lo. Cứ thế, lũ trẻ lớn lên trong vòng tay của hai bà mẹ. Thằng Thái và thằng Quốc - con bà cùng tuổi nên chơi thân với nhau hơn cũng như mẹ của chúng ngày trước.
            Hòa bình lập lại, cả ba đứa đều được đi học. Anh giáo làng hy sinh ở thượng Lào, bà Cần ở vậy nuôi con. Cái ngõ nhỏ có ba thằng bé đi về, hò hét. Chúng cưỡi trâu, đánh trận giả ngoài đồi. Khi đã lớn lộc ngộc thì thằng Thái và thằng Quốc đều đi bộ đội, vào chiến trường đánh Mỹ. Thằng Thông lên huyện học tiếp cấp 3. Ông chồng bà Miên thì lênh đênh trên con thuyền ngoài sông kiếm cá. Thỉnh thoảng ông lại đáo về lấy thêm gạo muối, để lại mớ tép khô cho cả hai nhà.
            Rồi tin thằng Quốc hy sinh báo về làng. Bà Cần khóc ngất đi mấy lần. Bà Miên cũng khóc cạn cả nước mắt. Bởi từ lâu hai bà đã coi thằng Quốc và thằng Thái là con chung của cả hai người. Trong dòng máu mỗi đứa có cả dòng sữa và sự lam lũ, tảo tần của cả hai bà mẹ. Chiến tranh chưa kết thúc. Nỗi đau của hai người đàn bà chưa nguôi thì lại có tin đồn bay về làng như sét đánh ngang tai. Đó là tin Thằng Thái chạy theo giặc, phản bội Tổ quốc. Bà Miên suy sụp hẳn. Bà Cần cũng đâm ra ngơ ngơ, ngác ngác. Chuyện có con bỏ quân ngũ đi theo giặc khiến hai vợ chồng bà Miên lúc nào cũng phải cúi gằm mặt xuống đất, không dám nhìn bà con xóm giềng nữa. Nhưng sống thì vẫn cứ phải làm ăn. Không ai muốn làm chung với bà Miên. Ngày ấy làm ăn tập thể mà không được làm chung với mọi người thì thật khốn khổ, khốn nạn. Suốt vụ cấy bà phải lầm lũi cắm từng cây mạ ở một góc ruộng. Mùa gặt, bà thui thủi bó lúa ở cuối cánh đồng. Bà thấy như xát muối trong lòng mỗi lần nghe trẻ con rêu rao:
           “Bà ăn cơm ta,
            Bà ở đất ta
            Con bà theo giặc!
            Tắc đùng... tắc tắc...
            Tắc tắc đùng đùng,
             Súng bắn lung tung,
            Vào làng, vào xóm...”.
            Bà Cần thương bà Miên lắm. Thấy bạn lủi thủi là rất muốn sang chia xẻ như hồi trước nhưng anh công an xóm đe: “Bà là mẹ liệt sĩ không được sang nhà có người theo giặc!”. Khổ thân bà cho Miên. Ông Được, chồng bà ấy nghe tin con trai theo giặc thì ở tịt luôn trên con thuyền giữa sông chẳng mấy khi về làng. Thằng Thông làm cán bộ ở trên tỉnh đang vào “nguồn lãnh đạo” liền làm đơn xin từ cả bố mẹ và em trai để lý lịch sạch sẽ thơm tho còn thăng tiến.
            Bà Miên cứ lủi thủi qua năm tháng mà sống. Trong sâu thẳm trái tim người mẹ, bà vẫn không tin là thằng con mình rứt ruột đẻ ra đã phản bội Tổ quốc đi theo giặc. Mỗi sáng thức dậy bà thường phải dọn những gói phân trâu, phân bò lũ trẻ con đêm qua ném vào sân. Ông lão Được sa vào rượu chè vì chán cảnh gia đình, con cái. Ông thường chèo thuyền ngược lên phía thượng nguồn, bắt được con tôm, con cá nào là đổi ngay lấy rượu uống cho khuây khỏa.
            Một sáng, người ta thấy con thuyền rách của ông trôi về bến sông đầu làng. Trên thuyền không thấy bóng ông lão đâu. Hai ngày sau người ta mới vớt được xác ông lập lờ nổi lên cạnh đám lau sậy bên bãi bồi. Ông lão ngồi uống rượu trên mũi thuyền say ngã lộn cổ xuống sông. Ông chết mà bụng vẫn lép kẹp không có một hột cơm. Đám ma ông chỉ có cánh công nhân khai thác cát sỏi và hai người đàn bà đi đưa. Bất chấp lời can ngăn của anh công an xóm, bà Cần cứ chống gậy ra tận cánh đồng, tiễn người quá cố về nơi chín suối.
            Ông lão Được chết được vài hôm thì máy bay Mỹ ném bom vào làng. Thực ra đó chỉ là một quả bom máy bay Mỹ định ném xuống cây cầu sắt nhưng quá đà rơi vào làng. Quả bom lạc rơi trúng nhà mụ Thiết. Mụ Thiết là dân buôn bán, phe phẩy. Mụ chuyên buôn tem phiếu, là đường dây móc ngoặc tuồn hàng trong mậu dịch quốc doanh ra ngoài bán ăn chênh lệch giá. May mà cả làng đã đi sơ tán vào trong núi nên không ai việc gì. Căn nhà gỗ lim năm gian cùng những thứ của chìm, của nổi của mụ Thiết tan tành. Một cái hố sâu hoắm tưởng tới tận âm phủ.
            Mụ Thiết đi chợ về tiếc của gào khóc inh ỏi. Gào khóc chán, mụ ta bắt đầu tru tréo, xỉa xói:
            - Cha tiên nhân quân bán…. nước… hại…. dân… theo giặc, chỉ điểm máy bay ném bom vào nhà bà…. Bà thì… móc mắt… moi gan… xé xác cái quân tay sai ấy ra... Cha… tiên… nhân… bố… nhà… mày... Sao này không bỏ làng, bỏ xóm mà đi cho mất tăm, mất tích, mất tông, mất giống nhà mày đi… Mày ở đây để làm hại cả làng à?
             Bà Miên nuốt nước mắt. Bà biết mụ Thiết gào thét, ám chỉ, chửi rủa mình nhưng vẫn im lặng. Bà đã phải chịu đựng quá nhiều những lời chưởi đổng, nói xa, nói gần như vậy rồi.
            Một hôm, khi bà đang lụi cụi cấy lúa ở mảnh ruộng đầu thừa đuôi thẹo gần cây cầu sắt bắc qua sông thì chợt giật nảy mình bởi tiếng quát:
            - Này, bà kia... bà kia! Bà định làm ám hiệu cho máy bay Mỹ ném bom xuống cầu hả?
             Bà Miên giật mình thảng thốt ngẩng lên. Anh công an xóm vứt “oạch” cái xe Phượng hoàng xuống vệ đường rồi xăm xăm lội xuống ruộng. Anh ta giật cái nón bà Miên đang đội trên đầu. Cái quai nón vướng vào cằm khiến bà ngã dúi dụi xuống ruộng bùn. Anh công an ném cái nón của bà xuống bờ ruộng rồi dẫm mạnh cho bẹp rúm. Vừa dẫm đạp cái nón vô tội, anh ta vừa gầm gừ:
            - Này thì... làm ám hiệu cho máy bay ném bom này...
            Khi anh công an đạp xe đi xa rồi, bà Miên mới lần lên bờ ruộng. Bà nhặt cái nón bẹp lên cố nắn lại. Cái nón bị gẫy vành nên méo mó. Trước khi úp lên dầu, bà vốc bùn non xoa lên nón. Bà lại cắm mặt xuống ruộng cấy lúa. Nước bùn, nước mắt và mồ hôi bà chảy ròng ròng trên mặt. Bà khóc cho đời bà, khóc cho con bà. Dù có theo giặc thì thằng Thái vẫn là đứa con bà rứt ruột đẻ ra. Bà nhớ khi còn bé, mỗi lần bú no nó đều cắn mạnh vào núm vú bà một cái đau điếng rồi mới chịu nhả. Lúc vừa biết đi nó đã lon ton đòi chạy theo mẹ ra đồng. Khi cu cậu biết chăn trâu, cắt cỏ thì xốc vác chăm chỉ, đỡ đần cho bố mẹ hơn hẳn thằng anh lười biếng, lẩn việc. Đang học lớp cuối cấp 2, nó bảo bà: “Con phải đi bộ đội đánh Mỹ, xong về lại học tiếp mẹ ạ!”. Nó rủ thằng Quốc làm đơn xung phong tòng quân. Hai thằng bảo nhau: “Nhất xanh cỏ, nhì đỏ ngực”. Rồi hai thằng ra đi. “Thế mà tại sao mày lại đi theo giặc Thái ơi!” - Bà Miên thầm gọi tên con và kéo vạt áo chùi mặt, nước mắt, nước bùn chảy ròng ròng xuống ngực áo.
*
           Bà Cần về đến cổng nhà bà Miên. Một cơn gió chợt ào đến khiến khóm tre xô nghiêng sàn sạt. Chợt nghe như có tiếng trẻ con nhao nhao: “Mẹ ơi! Mẹ ơi...”. Bà giật mình, ngỡ như vừa mới ngày nào mỗi lần đi chợ về đến đầu ngõ là thằng Quốc và thằng Thái đã reo lên gọi mẹ rồi ùa ra lục tung cả mấy mớ rau trong thúng tìm kẹo vừng, gióng mía. Thế mà... Bà thở dài, hai đứa đã đi mất cả rồi. Những tiếng gọi mẹ giờ như tiếng gió, tiếng mưa, hư hư, ảo ảo.
            Nghe tiếng kẹt cổng, bà Miên nhỏm dậy, quơ chân tìm dép.
            Bà Cần vào đến sân. Vừa nhìn thấy bà Miên, bà Cần đã nói vẻ thanh minh:
            - Tôi mua cho bà gói đường với hai cái bánh giò.
            - Bà cứ hay bày vẽ...
            - Thôi bà ăn cái bánh đi, còn nóng đấy.
            Bà Cần ngồi xuống bậu cửa.
            Bà Miên cầm hai cái bánh, gỡ lạt đưa lại cho bà Cần một cái. Hai người cùng ăn. Bà Miên bảo:
            - Còn nắm đỗ đen đấy, ta nấu bát chè ăn cho mát bà ạ!
            - Phải đấy! Sắp đến ngày hai bảy tháng bảy rồi, ta thắp hương cho các con luôn.
            Bà Miên lọ mọ xuống bếp tìm cái lọ đựng đỗ đen. Đỗ đen được trộn lẫn với tro bếp cho khỏi mọt. Bà đổ đỗ ra sàng bỏ tro bếp, đem ngâm rồi xả nước cho sạch. Khi nồi chè đã chín, bà Miên bảo: “Để tôi múc vài bát bà đem về thắp hương cho cu Quốc”. Bà Cần gạt đi: “Chúng nó ở đây cả rồi bà ạ!”. Bà Miên nhìn lên bàn thờ. ảnh hai đứa chụp chung khi mới nhập ngũ đặt trong khung viền tang đen mà vẫn cười toe toét.
            Bà Miên đặt mấy bát chè đỗ đen lên bàn thờ. Bà thầm gọi tên hai đứa con. Một cơn gió thổi bùng làm lửa cháy chân nhang. Có tiếng trẻ con reo hò văng vẳng ngoài ngõ.
            Bà Miên chợt nhớ lại cái ngày bà được đặt tấm ảnh của đứa con lên bàn thờ.
            Đó là một ngày cuối thu. Hôm ấy, có một chiếc xe quân sự rẽ vào làng. Nghe tiếng ồn ào đầu ngõ, bà Miên ra khép cổng. Bà nghĩ chắc lại có đoàn đại biểu nào đó đến thăm bà Cần. Từ ngày bà Cần được phong danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng thì thường có khách đến thăm luôn. Bà ấy còn được đón đưa đi tận Hà Nội viếng Lăng cụ Hồ, thăm nhà sàn, ao cá của Cụ và lên tận Hoà Bình xem cái nhà máy thuỷ điện to nhất nước.
            Nhưng đoàn người lại rẽ vào nhà bà. Có cả ông bí thư, ông chủ tịch xã đi cùng. Bà đang ngồi thái rau lợn ở góc sân. Bà lập cập đứng dậy lùi lại. Bà thoáng lo sợ khi nghĩ đến con mình - “cái thằng theo giặc” - chắc lại phạm thêm tội gì đây nên hôm nay họ về bắt bà. Anh bộ đội có mái tóc đốm bạc bước lại cầm tay bà nói: “Chúng tôi ở đơn vị đồng chí Thái. Hôm nay về thăm gia đình”. Bà hốt hoảng: “Thế nó lại gây ra tội lỗi gì thế...”. Anh bộ đội già nói tiếp: “Không… không phải... Đồng chí Thái là một chiến sĩ tình báo, chiến đấu, lập được nhiều chiến công và hy sinh rất dũng cảm”. Bà Miên buột miệng: “Thế sao người ta vẫn bảo là nó đi theo giặc?”. Anh bộ đội trẻ giờ mới lên tiếng: “Không phải theo giặc mà chui vào hàng ngũ của giặc hoạt động, nắm tin tức để đánh thắng nó mẹ ạ! Hôm nay chúng con đến báo tin anh ấy hy sinh...”.
             Mọi người vỡ lẽ, ồn ào. Có người chạy vội ra ngõ loan tin, kẻ từ ngoài cổng háo chuyện kéo vào. Chả mấy chốc nhà bà Miên đã chật cứng người. Lễ truy điệu cho liệt sĩ tình báo Lê Nguyên Thái được tổ chức. Cả làng bây giờ mới biết chuyện anh Thái không đi theo giặc mà là một chiến sĩ tình báo, hoạt động và hy sinh trong lòng địch. Bà Miên cứ như tỉnh, như mê. Mọi người xúm lại dọn dẹp bàn thờ. Người đem chuối, bưởi, hương nhang đến. Kẻ đưa xôi oản, bánh kẹo vào. Lão Hoàn chuyên nghề giết mổ ngoài chợ đem đến cả một cái thủ lợn vừa luộc chín còn đang bốc khói đặt lên bàn thờ. Hương khói nghi ngút. Trong đám người đến lễ vái trước bàn thờ liệt sĩ có cả những kẻ đã từng ném phân trâu vào nhà bà, hoặc đã từng vạch than lên cánh cổng nhà bà dòng chữ đen ngòm: “Đả đảo quân theo giặc, bán nước, ôm đít Mỹ ngụy”.
             Mụ Thiết cầm thẻ nhang len lén đi vào. Thời nào cũng vậy, dân buôn gian bán lận bao giờ cũng giàu. Chỗ căn nhà gỗ lim của mụ trúng bom Mỹ tan tành đã mọc lên ngôi nhà ba tầng đúc bê tông to nhất làng. Mụ Thiết vừa cắm nén nhang vào bát nhang thì đột nhiên có một cơn gió thổi thốc vào nhà. Bát nhang nhỏ lại cắm quá nhiều nên những nén nhang bung ra rơi xuống lả tả. Một nén nhang phóng vèo qua mặt mụ Thiết. Tóc mụ cháy xèo xèo. Mụ Thiết hoảng quá vái lạy như tế sao.
            Anh công an xóm, người đã từng bao năm theo dõi, quản lý mẹ của “kẻ theo giặc”, từng dẫm bẹp cái nón trắng của bà ngày nào để bà khỏi sử dụng làm ám hiệu cho máy bay Mỹ ném bom thì không đến được nữa.
             Hơn chục năm trước, xã mở một con đường mới. Đường làm đến đầu làng Vũ thì vướng phải một ngôi miếu nhỏ. Ngôi miếu này chẳng biết có tự bao giờ. Gia tự mấy dòng họ trong làng cũng không thấy ghi chép gì. Nhiều người bảo ngôi miếu này thờ thực thần, tức là người có công với nước, với làng. Có người lại nói cái miếu chỉ thờ hư thần, tức là yêu tinh, ma quỷ. Lão Hoàn mổ lợn thì khăng khăng khẳng định có một người ăn mày bị chết ở đây, qua một đêm kiến mối đã đùn lên thành mộ. Đời sau người ta lập thành miếu thờ. Thờ gì cũng mặc, vướng vào con đường đang mở thẳng băng là không được. Đám thanh niên sợ không dám vào phá cái miếu. Anh công an xóm hò hét mãi không được cáu tiết xông vào túm pho tượng nhỏ trên ban thờ ném xuống mương nước còn dọa đái vào bát nhang nữa. Đám thanh niên bấy giờ mới dám đập phá miếu.
             Khi con đường khánh thành thì anh công an xóm ngã bệnh, ốm liệt giường, chạy chữa ba bốn tháng mới khỏi. Nhưng lạ thay từ ấy hạ bộ của anh ta cứ to dần lên như cái ấm tích, không đau, không nhức, nhưng không kiểm soát được việc tiểu tiện, thải ra quần lúc nào cũng không hay. Giờ thì anh ta đã thành ông, có cháu nội, cháu ngoại. Nhưng lúc nào ông ta cũng phải đeo một cái gáo dừa để hứng nước tiểu nên chẳng dám ló mặt ra khỏi nhà.
             Đoạn đường đi qua nền cái miếu cổ ấy thường hay xảy ra tai nạn. Con gái thấy tháng đi qua về thế nào cũng ốm. Đàn bà có thai dè chừng bị xẩy. Đám đàn bà con gái sợ không dám đi qua đoạn đường này, toàn phải lội vòng con mương mỗi lần ra đồng. Có thằng cướp giật đồ, giết người ở đâu phóng xe máy chạy qua, đường trống trơn mà tự dưng ngã oạch một cái, nằm há mồm ra chờ người đến bắt.
*
            Buổi lễ truy điệu liệt sĩ Thái kết thúc. Chị cán bộ thương binh xã hội xã đưa cho bà Miên một cục tiền tuất. Hai anh bộ đội trước khi trở về đơn vị cũng trao tặng bà cuốn sổ tiết kiệm ba trăm nghìn đồng. Có ai đó nói: “Bà Miên phải được phong là bà mẹ anh hùng mới đúng!”. Một người vặn lại: “Danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng chỉ tặng cho các mẹ có ba con liệt sĩ trở lên hoặc có một con duy nhất nhưng là liệt sĩ thôi...”. Lại một người nữa cãi: “Thì bà Miên cũng chỉ có một con duy nhất đã hy sinh”, “Thế còn ông Thông không tính à?”, “Ông ấy đã từ bỏ gia đình, bố mẹ và em rồi, coi như không tính!”. Thêm một người tranh luận lại: “Mấy lần ông ấy vẫn gửi tiền cho bà Miên đấy!”, “Nhưng bà ấy đều không nhận”. Có ai đó chêm vào: “Mấy hôm trước, tôi thấy ông ta đi chiếc xe con bóng lộn về sân vận động huyện ta phát biểu, động viên cánh thanh niên xung phong tình nguyện mùa hè xanh đấy! Nói năng hùng hồn lắm…”.
            Cuối chiều, mọi người đến dự lễ truy điệu đều về cả, chỉ còn lại bà Cần. Lúc này, hai bà mới đốt một nắm nhang cắm lên bàn thờ. Và cũng đến lúc này hai người mới khóc. Suốt buổi lễ truy điệu, mắt họ ráo hoảnh. Vịn tay lên mép bàn thờ, nhìn tấm bằng “Tổ quốc ghi công” và cái khung kính gài đỏ những huân, huy chương của con, bà Miên chợt kêu lên:
            - Thôi chết! Chả còn giữ được cái ảnh nào của thằng Thái cả!
            Bà Cần lập cập:
            - Còn… vẫn còn đây! - Bà rút từ túi áo ra một tấm ảnh tày ba ngón tay. Thằng Thái chụp chung với thằng Quốc khi mới nhập ngũ. Hai thằng mặc quần áo bộ đội rộng thùng thình, miệng cười toe toét. Bà Cần bảo:
            - Bà đem lên phố truyền thần riêng ảnh cu Thái ra để đặt lên bàn thờ. Cái ảnh này tôi tìm thấy trong ba lô di vật của cu Quốc khi báo tử đơn vị họ đem về đấy.
            Bà Miên biết ngày trước cu Thái hay chụp ảnh, trước khi đi B cũng gửi về mấy cái. Khi có tin đồn em “theo giặc”, thằng anh đã về lấy hết cả ảnh, thư từ của em đem đi đốt để khỏi dính dáng gì tới kẻ phản bội nữa.
            Run run đỡ lấy tấm ảnh, bà Miên nói:
            - Mai tôi sẽ đem đi thuê chụp lại. Mà cứ để nguyên hai đứa chúng nó đứng với nhau, phóng lấy hai cái đặt cả bàn thờ bên tôi và bàn thờ bên nhà bà. Để chúng nó luôn có nhau và khi đói khát nhớ mẹ về đến nhà nào cũng có cơm ăn, nước uống...
                                                   *
            Câu chuyện tôi ghi lại được về hai bà mẹ ở cái ngõ nhỏ làng tôi là như thế đấy. Có người nói đời có luật nhân quả. Có kẻ lại bảo quá khứ nhắc lại mãi làm gì, bơn bớt ôn nghèo, kể khổ đi, cuộc đời ai biết trước rồi sẽ ra sao, sông cũng có bên bồi, bên lở, nhân vô thập toàn. Còn tôi thì cứ suy nghĩ mãi về câu chuyện của hai bà mẹ liệt sĩ và những gì họ đã phải trải qua, nghĩ về những điều còn trăn trở, khuất khúc của chiến tranh.
            Người làng tôi từ lâu vẫn nổi tiếng khái tính. Bà Cần là Bà mẹ Việt Nam anh hùng được thường xuyên thăm hỏi, tặng quà. Đường sữa, quà bánh cứ để đấy ăn thế nào được hết, đem cho, đem biếu người ta cung ngại nhận. Còn bà Miên, kể từ khi có tin đồn “nuôi con theo giặc” đã sống co mình lại như một con sâu, cái kiến. Bà từ chối mọi sự thương hại, ban ơn cũng như chai sạn dần với sự khinh ghét của xóm giềng. Khi trở thành mẹ liệt sĩ, bà cũng bình thường như hàng ngàn vạn bà mẹ khác có con hy sinh trong các cuộc kháng chiến mà thôi. Có lần bà Cần được người ta biếu nhiều quà cáp mang sang cho, bà cũng không nhận, không muốn ăn ké vào phần của bạn. Đọc đến đây chắc bạn đọc đã hết thắc mắc vì sao trong nhà có cả mấy chum đường, hàng chục hộp sữa mà bà Cần vẫn phải ra đầu ngõ để mua nửa cân đường đi thăm bạn ốm.
            Đó là câu chuyện trong cái ngõ nhỏ làng tôi. Cái làng với những con người nổi tiếng là khái tính...
                                                                                                                                                Làng Thượng, 7-2001

Thứ Năm, 26 tháng 7, 2012

Truyện ngắn HÔM NAY TRỜI NHIỀU GIÓ

            
Nhân dịp kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh-liệt sĩ 27-7, trang Văn học thứ Sáu của Báo QĐND số ra ngày 27/7/2012 đăng truyện ngắn HÔM NAY TRỜI NHIỀU GIÓ  này. Xin chân thành cảm ơn BBT báo QĐND (Trọng Bảo)







HÔM NAY TRỜI NHIỀU GIÓ
Truyện ngắn của Trọng Bảo
          
           Hai mẹ con đi chợ từ rất sớm. Bé Thương được mẹ cho đi chợ thì thích lắm. Lẽ ra hôm nay nó phải đến lớp mẫu giáo. Nhưng cô giáo bị ốm nên nó phải nghỉ học. Không thể để con bé ở nhà một mình, cái ngôi nhà khuất sau làng toàn bọn nghiện hút lảng vảng nên chị đành cho nó cùng ra chợ.
           Mẹ quẩy gánh rau muống đi trước. Con bé lon ton chạy theo sau. Chân nó ngắn nên chốc chốc chị lại phải dừng lại chờ nó. Con bé cố chạy cho kịp để mẹ khỏi phải chờ. Nó biết gánh rau của mẹ nặng lắm. Hôm qua mẹ đã mất cả buổi chiều để hái từng ngọn, bó từng mớ thận cẩn thật. Nó hỏi: "Sao mẹ không lấy liềm cắt cho nhanh ạ!". Chị bảo: "Rau cắt bằng liềm đem ra chợ người ta chê không mua con ạ!". Nó lại hỏi: "Sao thế ạ?". Chị lại phải giải thích cho nó là rau muống cuối vụ đã kém mơn mởn mà lại dùng liềm cắt cọng rau hay bị vỡ, chẻ ra, ngọn to ngọn nhỏ lẫn lộn, nhiều khi có cả cỏ nên thường rất khó bán. Con bé có vẻ hiểu. Nó thương mẹ lắm. Mới năm tuổi nhưng nó biết mẹ vất vả. Bố đi làm ăn xa, quanh năm đảo về vài luợt. Mọi công việc đồng áng ở nhà đều do một mình mẹ nó đảm đương. Không biết bố làm ăn thế nào nhưng nó thấy có lần mẹ phải vét gần hết cái bồ lúa nhỏ mang ra chợ bán đưa tiền cho bố nó đem đi.               
          Từ nhà ra đến chợ hơn một cây số. Con bé đã mỏi chân lắm rồi. Chị động viên: "Con có mệt không! Cố gắng lên! Lúc về mẹ sẽ không để con phải đi bộ nữa". Con bé gật đầu ra vẻ không mệt để mẹ yên tâm. Đến chợ chị tìm mãi mới có một chỗ trống để đặt gánh xuống. Hai mẹ con ngồi giữa gánh rau muống.
Trời bắt đầu trở gió. Gió bắc từng đợt bất ngờ tràn về. Một bà mua mớ rau nhìn thấy con bé ngồi thu lu thì mắng chị:
          - Hôm qua không xem thời tiết trên ti vi à? Đưa con ra chợ mà để nó ăn mặc phong phanh thế!
          Chị ấp úng. Nhà chị thì làm gì có ti vi mà xem. Tối nào chị cũng phải đưa con bé Thương đi sang nhà hàng xóm xem nhờ chương trình thiếu nhi. Khi con bé về nhà ngủ rồi chị mới một mình hì hụi ngồi gọt, nạo sắn để ngày mai phơi cho kịp nắng.
          Đến giữa buổi chợ mà gánh rau muống chị mới bán được vài mớ. Thấy hàng hoa bên cạnh có người vừa mua vừa nói chuyện chị mới sực nhớ hôm nay là ngày rằm. Mùng một, ngày rằm ở quê bây giờ người ta cũng thường cũng bái, tổ chức ăn uống vì thế ít người mua rau muống. Chị ôm chặt con bé vào lòng cho nó đỡ rét và hỏi:
          - Con đói rồi phải không?
          Nó gật đầu. Chị bảo:
          - Để mẹ sang hàng bên cạnh mua cho con cái bánh rán.
          - Mẹ cứ bán hết rau đi đã...
          Con bé gàn mẹ. Chị lần túi áo. Mới chỉ có hai nghìn đồng của bà mua rau lúc nãy. Chị mua cho con hai cái bánh rán. Con bé đưa lại cho mẹ một cái. Mẹ cũng chưa ăn gì lại gánh rau nặng từ nhà lên chợ. Chị xoa đầu đứa con gái nhỏ hiếu thảo và nói:
          - Con cứ ăn đi kẻo đói. Mẹ không đói đâu. Bán được hết rau hôm nay mẹ sẽ khao con một bát bún riêu cua đồng thật ngon.
          Con bé nuốt nước miếng. Nó cầm cái bánh rán ăn nhỏ nhẻ như muốn tận hưởng hết cái vị ngon của bánh. Cái bánh còn nóng, vỏ đường bọc bên ngoài ròn tan, ngọt lịm.
          Phiên chợ vẫn ồn ào. Người qua người lại nói cười râm ran. Một vài bà cầm mớ rau của chị lên xem chê rau già, không ngon, rồi đi.
Trời mỗi ngày một gió to hơn. Gió giật phành phạch mấy tàu lá cọ che trên quán chợ. Chị khẽ rùng mình. Chị lo cho con gái bị lạnh. Nhưng chưa bán hết gánh rau hai mẹ con chưa về được. Chị lo lắng nhìn lên bầu trời. Buổi sáng lúc hai mẹ con đi ấm áp. Bầu trời còn có mấy ngôi sao muộn lấp lánh. Thế mà bây giờ mây kéo về sám xịt. Gió bắc thổi ào ào. Mưa lắc rắc. Nhiều người đi chợ đã nháo nhác ra về.
          Giữa lúc ấy thì phía cổng chợ có tiếng người hò hét, kêu cứu. Tiếng ai đó quát to vẻ hốt hoảng: "Chạy... chạy... đi! Một thằng điên... nó cầm dao xông vào chợ đấy...". Mấy bà quẳng cả rổ rau bỏ chạy.
          - X... u... n... g... p... h... o... n... g....
          Tiếng chân chạy rầm rập. Chị hốt hoảng ôm chặt lấy con lùi lại.
          - Bắt... bắt... lấy... tước ngay con dao của nó... nguy hiểm quá...
          Tiếng nhiều người gào lên. Nhốn nháo. Xô đẩy, đạp nhau mà chạy. Đúng là vỡ chợ.
          Một người đàn ông mặc độc một cái quần đùi "bà bô", tay cầm con dao chọc tiết lợn lao về phía dãy hàng rau hô to: "Xung... phong... xung... phong...".
          Anh ta vừa chạy vừa hô vang. Thỉnh thoảng anh lại nằm xuống bò lê dưới rãnh nước bùn bẩn lều phều những cọng rau, rác rưởi và vảy cá. Con dao trong tay anh chém xỉa lung tung. Mọi người hốt hoảng chạy rạt ra. Chị ôm con gái rúc vội vào một góc quán. Người đàn ông lao đến chỗ gánh rau của chị phạt lia lịa. Những mớ rau bị chém làm đôi, làm ba, tơi tả.
          Một người bảo vệ chợ lựa thế lao vào quật ngã và tước được con dao của anh ta. Mấy người nữa ập vào đè nghiến anh ta xuống nền đất nhoe nhoét những bùn đất. Họ dùng dây trói chân, trói tay anh ta lại như trói một con lợn. Anh ta vẫn luôn mồm hò hét: "Các... đồng... chí... xung... phong... xung... phong...". Một người đàn bà đầu tóc tả tơi từ đâu hớt hải chạy đến xoa xoa vào đầu anh ta vẻ an ủi. Anh ta dịu dần. Mọi người giúp người đàn bà đưa anh ta đi. Các hàng quán lại trở lại bán hàng. Tiếng nói cười lại râm ran như chẳng có gì xảy ra. Chị và con gái lúc này mới hoàn hồn. Con bé mặt mũi vẫn còn tái nhợt. Nghe mọi người lao xao nói chuyện chị mới biết đó không phải là một người điên. Anh ấy là một thương binh sọ não mới chuyển về ở thị trấn. Vì trời bất ngờ trở gió nên làm anh bất ngờ phát bệnh. Lúc phát bệnh anh cứ nghĩ là mình đang xung trận đánh giặc. Anh lao vào chợ, cướp được con dao của bà bán thịt lợn ở cổng. May mà không chém vào ai. Nghe mọi người nói, chị thấy thương xót cho người thương binh ấy. Chị nhặt những mớ rau muống bị chém tơi tả cho vào rổ để đem về. Bà bán bánh cuốn ở dãy đối diện đi sang đưa cho chị cái bao tải bảo:
          - Cho hết vào đây, tôi mua cho mà về...
          Chị ngạc nhiên:
          - Rau nát cả rồi bà mua làm gì ạ?
          - Mang về chăn nuôi! Còn ba chục mớ phải không. Mỗi mớ ba trăm đồng như vẫn bán. Đây mười nghìn, cho con bé một nghìn mua kẹo nhé!
          Chị lí nhí cảm ơn bà bán bánh cuốn rồi quẩy quang gánh dắt con gái ra cổng chợ. Bé Thương nắm chặt tay mẹ. Nó bước đi lập cập vẻ lạnh và vẫn còn sợ.
          Đang đi chợt bé Thương níu tay mẹ bảo:
          - Mẹ ơi dừng lại đã...
          - Gì thế con?
          - Có một thằng bé...
          - Thằng bé nào?
          Chị nhìn theo tay con gái. Có một thằng bé đang ngồi phệt ở gốc cây cạnh đống rác. Mặt mũi nó nhem nhuốc. Nó ngồi lẫn giữa các bao rác. Nó đang khóc. Thấy hai mẹ con chị đến gần nó mếu máo: "Đừng trói bố cháu... đừng trói bố cháu...". Thì ra nó là con của người đàn ông vừa cầm dao lao vào chợ lúc nãy. Bé Thương moi từ trong túi áo ra cái bánh rán bé xíu đưa cho nó bảo:
          - Em ăn đi...
          Thì ra nó vẫn để dành cái bánh phần mẹ. Thằng bé cầm cái bánh nín khóc. Hai mẹ con chưa biết làm thế nào thì thấy người đàn bà đầu tóc tả tơi lúc nãy đang nhớn nhác tìm gọi con. Thằng bé nhận ra mẹ. Nó đã chạy theo mẹ ra chợ tìm bố. Khi được mẹ bế đi nó còn ngoái lại nhìn cái Thương mãi. Cái Thương bảo mẹ: "Chú thương binh lúc nãy khổ quá mẹ ạ! Chú ấy bị người ta đè xuống chỗ bùn bẩn để trói... Con thương chú ấy lắm!".
           Hai mẹ con ra khỏi chợ. Chị bảo tìm một hòn đá cho cân để gánh con khỏi phải đi bộ. Bé Thương không chịu. Nó nói vẫn đi được. Hai mẹ con băng qua con đường trống giữa cánh đồng. Gió càng mạnh. Chị nhặt được một cái áo ni-lông loại hai nghìn bị rách toạc của những người đi xe máy vứt đi khoác cho con đỡ rét.
           Bóng hai mẹ con như hai cái chấm nhỏ liêu xiêu giữa cánh đồng.
           Hôm nay sao trời nhiều gió thế.

Thứ Năm, 12 tháng 7, 2012

Trường Sa một lần tôi đến

                         
           
               Trường Sa một lần tôi đến
 
                 Trường Sa có một lần tôi đến
           Đảo mong manh giữa sóng đại dương
           Người lính trẻ tự tin trên biển
           Coi đảo xa như thể quê hương.
 
           Tôi gặp cánh chim trời bay mãi
           Nơi đảo chìm không một bóng cây,
           Vị muối mặn thấm vào từng hơi thở
           Ánh nắng hè đen cháy những cánh tay…
 
           Nâng niu quả bàng vuông xanh ngắt
           Song Tử Tây vi vút ngọn phi lao
           Tôi chợt gặp một miền quê yên ả
           Đàn bò vàng đủng đỉnh cạnh vườn rau.
 
           Đêm trên đảo Sơn Ca không ai ngủ
           Tiếng đàn hòa cùng tiếng gió biển khơi.
           Cô ca sĩ hát tặng riêng bạn mới
           Bởi sáng sớm mai tàu đã nhổ neo rồi…
 
            Tôi lặng lẽ bước theo bờ cát
            Hoàng hôn buông trên đảo Sinh Tồn
            Gió đẩy sóng xô vào bờ rào rạt
            Cây phong ba như vẫn xanh hơn.
 
            Ôi Cô Lin, Len Đao, Đá Lớn…
            Đảo chìm sao giống thế những con tàu
            Giữa sóng lớn không chòng chành, nghiêng ngả
            Mãi định hình Tổ quốc đến mai sau.
 
            Trường Sa, một lần tôi đã đến
            Càng thêm yêu nước Việt Nam mình
            Hiểu người lính ngày đêm giữ biển
            Giọt máu hồng cho biển mãi thêm xanh…
 
                                       Trường Sa, 4/2005
                                  Trọng Bảo
 

Thứ Sáu, 6 tháng 7, 2012

Mời nghe đọc truyện Một cuộc thi tài

      
Một cuộc thi tài
Truyện thiếu nhi của Trọng Bảo

        Buổi sáng, có tiếng loa rao vang khắp cánh đồng: "Thi tài... thi tài... chọn người tài giỏi đi đại hội đầm sen đây!". Bọn ếch, nhái, chẫu chuộc lao xao gọi nhau đi thi. Lão cóc được đề cử làm trưởng ban giám khảo. Lão này có tiếng là công minh, chính trực. Việc gì sai trái là lão lập tức phê phán ngay. Ngày xưa lão còn dám lên tận thiên đình kêu kiện, đấu lý, ông trời cũng phải chịu thua lão.
      Lão cóc đứng chống nẹ tuyên bố:
      - Chúng ta sẽ thi môn nhảy cao!
      Cả bọn ồn ào khi lão cóc công bố thể lệ cuộc thi. Lũ châu chấu, niềng niễng, cào cào bị loại ngay không được dự thi vì chúng vừa nhảy, vừa bay, rất khó xác định được thật giả. Bọn cá buồn thiu không thể tham gia vì cuộc thi tiến hành ở trên cạn mà cá muốn nhảy được thì phải nhờ có nước. Đám rùa, cua, ốc, cà cuống thì chịu hẳn vì cả đời chúng có biết nhảy là gì đâu. Chỉ có đám ếch nhái là phấn khởi. Ếch tin mình chắc chắn là vô địch vì xưa nay nó vẫn nổi tiếng là nhảy cao, nhảy xa nhất cánh đồng.
       Cuộc thi bắt đầu. Lão cóc trịnh trọng phất cờ lệnh. Đúng như dự đoán trước, cả ba lần nhảy, đại diện của lũ ếch đều nhảy cao và xa nhất, chẫu chuộc xếp thứ nhì và nhái bén đứng thứ ba. Đám ếch huênh hoang reo hò ầm ĩ khắp cánh đồng:
     
- Số một... số... một... một... một... ếch... là... số... một...

      Lão cóc bảo:
      - Ếch vô địch! Nhưng hôm nay mới chỉ là vòng sơ khảo. Sau ba tháng nữa sẽ là vòng trung kết, quyết định thắng thua!
      Lũ chẫu chuộc, nhái bén lặng lẽ ra về. Trong khi đó thì đám ếch tưng bừng gọi nhau tổ chức ăn mừng chiến thắng râm ran khắp cả cánh đồng. Một trận mưa rào đổ xuống làm cho cuộc liên hoan của bọn ếch càng thêm ồn ào, hào hứng. Chúng hỉ hả chúc tụng nhau, mời nhau ăn uống no say, lúc nào cũng bàn luận về chiến thắng, về vinh quang chói lọi của loài ếch, chê bai thoả thích các loài khác. Tiệc tùng, ăn uống triền miên nên lũ ếch ngày càng béo ục ịch, chậm chạp hẳn đi.
      Trong khi đó thì ở ngoài rìa cánh đồng bọn chẫu chuộc và nhái bén lặng lẽ tổ chức luyện tập. Ngày này qua ngày khác chúng kiên trì tập nhảy. Những chú chẫu chuộc, nhái bén mồ hôi đầm đìa vì tập luyện vất vả. Có con còn bị ngã vỡ đầu, chảy máu. Nhưng bọn chúng vẫn không nản lòng, nhụt chí.
      
Cuối mùa thu, vòng thi chung kết nhảy cao bắt đầu.
      B
ọn ếch xung phong vào nhảy trước. Nhưng sao thế này. Những chú ếch béo ục uỵch nhảy chồm chồm mãi không qua khỏi ngọn cỏ. Có chú còn ngã lăn ra đất mãi mới gượng dậy nổi. Thì ra do quá tự tin, mải say sưa ăn mừng thắng lợi bước đầu, không chịu thường xuyên luyện tập nên ếch không nhảy cao như trước được nữa. Trong khi đó những chú chẫu chuộc, nhái bén đều nhảy rất cao, rất gọn. Có chú chẫu chuộc chỉ cần nhún chân một cái đã vọt lên tận ngọn cây ngô đang trổ cờ. 

      Lão cóc kiểm tra cẩn thận từng mức xà rồi mới công bố kết quả:
      - Giải nhất, đứng số một là chẫu chuộc, giải nhì, xếp thứ hai là nhái bén, không có giải ba, giải khuyến khích là ếch. Chẫu chuộc và nhái được cử đi dự đại hội đầm sen mùa hè sang năm.
       Khán giả ồ lên ngạc nhiên khâm phục chẫu chuộc và nhái bén. Cũng có nhiều tiếng chê bai đám ếch chưa chi đã vội tự phụ với thành tích của mình, lên mặt coi thường người khác, không chịu thường xuyên tu dưỡng, luyện tập nên đã thất bại. Bọn ếch lủi thủi kéo nhau ra về. Chúng chui ngay vào trong hang phủ kín cửa nằm giấu mặt cho đỡ ngượng. 
      Kể từ đó mỗi khi có mưa rào, nhớ lại giây phút huy hoàng, bọn ếch lại gọi nhau, tiếc muối nhắc lại chiến thắng vinh quang của mình: "Số... một... một... một...". Lâu dần chúng kêu chệch đi thành "ộp... ộp... ộp..." như ngày nay.
                                                                         Hà Nội, tháng 6-2009

Thứ Ba, 3 tháng 7, 2012

Tản văn Măng đắng Hà Giang

              
    
Măng đắng Hà Giang
Tản văn của Trọng Bảo

          Ngày ấy ở Hà Giang chúng tôi thường bảo nhau: “Ăn một miếng măng đắng ba ngày sau miệng vẫn còn thấy đắng”. Bây giờ nhớ lại cái thời gian khổ “măng đắng” ấy lòng tôi cứ thấy nao nao.
           Đó là những tháng năm sau chiến tranh chống Mỹ, đất nước bước vào xây dựng hàn gắn vết thương sau bao năm bom đạn. Những người lính bước ra từ chiến tranh bước vào công trường. Tiếng reo vui chiến thắng của mùa Xuân năm 1975 còn chưa lắng xuống thì quân dân ta đã phải đối mặt với nguy cơ nghèo đói. Những đoàn quân chưa kịp buông vũ khí đã cầm ngay dụng cụ lao động. Trung đoàn 246 của chúng tôi ngược lên vùng cao Hà Giang. Chúng tôi đi về phía thượng nguồn con sông Lô lịch sử phá núi làm đường. Giữa những lau lách, tre nứa ngút ngàn tôi mới hiểu thế nào là chiến khu xưa với ngọn măng, quả trám nuôi quân kháng chiến.
           Hôm đầu tiên hành quân lên Hà Giang tiểu đội tôi ở trong một nhà dân tộc Dao giữa rừng sâu. Bữa cơm độn ngô cánh lính ngồi ăn cùng gia đình. Gắp một miếng măng đắng đưa lên miệng tôi nhăn mặt vì vị đắng đến kinh người. Suýt nữa thì tôi nhổ ra vì đắng quá. Đắng như chưa bao giờ mình bị đắng đến thế. Lưỡi quằn lên vì đắng. Suốt bữa, tôi sợ không dám đụng đũa đến món măng trên mâm. Măng đắng ấy là loại măng của cây vầu. Loại vầu này to như cây tre mai ở quê tôi. Dọc tuyến đường chúng tôi đang thi công là những rừng vầu bạt ngàn. Những cây vầu ken nhau vươn thẳng lên trời cao, trùng trùng điệp điệp một vùng rừng núi huyện Bắc Quang.
           Chúng tôi chặt cây vầu để xây dựng doanh trại dã chiến giữa rừng, làm lán trại ở tạm thi công theo dọc tuyến con đường mới mở. Những thân vầu để nguyên là cột, chẻ ra làm mè, làm rui, làm sạp nằm của lính công binh. Tôi nhớ bài thơ ngày ấy mình viết về cây vầu có câu: “Một thân không quả, không hoa/Để nguyên là cột, chẻ ra làm mè”. Những gốc vầu già chuốt đi làm đũa lên vân màu đỏ sậm. Nhưng thích nhất là măng vầu. Vì ở giữa chốn rừng sâu măng vầu trở thành một thứ thực phẩm rất quan trọng. Mùa măng lên vào trong rừng vầu thật thích. Những ngọn măng chĩa lên trời xanh tua tủa như một bãi chông, như một rừng giáo mác trùng điệp. Vị đắng của măng rồi cũng quen dần trong bữa ăn của người lính. Chút mỡ hoá học, măng đắng sào với mắm tôm. Măng đắng nấu cùng con cá câu ngoài suối giúp bọn lính chúng tôi vượt qua cơn đói cồn cào của những ngày gian khổ ấy. Tôi nhớ có lần vào rừng đào măng đắng, gặp mấy cô gái người dân tộc cũng đang đi hái măng. Tôi trêu liền đọc mấy câu thơ:
           “Măng rừng sao đắng thế
            Mà người thì vẫn xinh?”
            Một cô tủm tỉm cười ứng đối ngay:
            “Cũng tại rừng cay đắng
             Nên xanh lại càng xanh…”.
            Sau này khi viết truyện ngắn Mưa rừng về miền đất Hà Giang mình từng sống và lao động những ngày gian lao ấy tôi lại nhớ đến hình ảnh của hai cô gái trong rừng vầu măng đắng bao la bên bờ con sông Bạc bữa nào. Ngày 30-6, chúng tôi sẽ gặp mặt nhau ở Phú Thọ để kỷ niệm 64 năm thành lập Trung đoàn 246. Đồng đội tôi có ai còn nhớ tới vị măng đắng Hà Giang ngày nào?
            Bây giờ cuộc sống không còn phải lo đói ăn, đứt bữa như ngày xưa nữa nhưng nhớ lại một thời gian khổ ấy sao mà tôi lại thấy thèm một vị đắng của măng vầu và thấy nhớ Hà Giang đến thế…
                                                                                       Hà Nội, 29-6-2012